TRAN XUAN AN - NGUYEN VAN TUONG, "NHUNG NGUOI TRUNG NGHIA ..." 2

Friday, April 28, 2006

NGUYỄN VĂN TƯỜNG, “NHỮNG NGƯỜI TRUNG NGHĨA TỪ XƯA, TƯỞNG KHÔNG HƠN ĐƯỢC” 2

TRẦN XUÂN AN

NGUYỄN VĂN TƯỜNG,
“NHỮNG NGƯỜI TRUNG NGHĨA
TỪ XƯA,
TƯỞNG KHÔNG HƠN ĐƯỢC”



KHẢO LUẬN VỀ MỘT VÀI KHÍA CẠNH SỬ HỌC



Nhà Xuất bản


2003


Phần III
( xin xem phần I [khảo luận] & phần II [đối thoại]:
http://tranxuanan-nvtnntnghia.blogspot.com/ )

PHỤ LỤC:

ĐẠI NAM THỰC LỤC, CHÍNH BIÊN, IV, V,VI

(trích đoạn nguyên văn)

1. Nguyễn Văn Tường cùng đồng sự đi kinh lí huyện Thành Hóa, Quảng Trị, tháng 01 Giáp tí (tháng 02. 1864):

“Sai hữu thị lang Bộ Lại là Thân Văn Nhiếp, biện lý Bộ Binh là Nguyễn Văn Tường đi các châu tổng trong huyện Thành Hóa, đạo Quảng Trị, để thăm xét dân tình, địa thế. Bọn Văn Nhiếp xin trích phái 1 quản cơ, 3 suất đội, và 150 tên biền binh ở cơ Định Man đem khí giới đầy đủ đi theo cho trọng sự thể. Và xin mua theo thị giá các thứ vải hoa màu của Tây dương và sa nam, may chế quần áo đều 20 bộ, chè bắc hạng to cánh 5 cân, rượu 30, 40 cân, đem ban cấp cho những người ti mục dân thổ, để tuyên bảo đức ý của Triều đình. Vua y cho”.

(ĐNTL.CB., tập 30, Nxb. KHXH.,
1974, tr. 51).

2. Nguyễn Văn Tường là vị quan giỏi được chọn làm phủ doãn để hiểu bảo giáo dân Thiên Chúa giáo tại kinh đô Huế, tháng 6 Giáp tí (tháng 7.1864):

“Vua cho là hiện nay dân lương, đạo khích nhau, kinh ấp Thừa Thiên, Nghệ An hạt lớn, cần được người giỏi để hiểu bảo cho dân yên. Bèn cho Ngụy Khắc Đản (biện lý) lãnh bổ bố chính sứ Nghệ An (nguyên bố chánh là Đoàn Văn Hội đổi vào làm biện lý Bộ Binh), Nguyễn Văn Tường (biện lý) lãnh chức phủ doãn (nguyên phủ doãn là Trần Tiến Thọ can dân kiện ở ngoài đợi xét)”.

(ĐNTL.CB., tập 30, Nxb. KHXH.,
1974, tr. 97 – 98).

3. Nguyễn Văn Tường xin trở về Thành Hóa (Cam Lộ) để làm tuyên phủ sứ, đặt cơ sở để xây dựng Tân Sở, hậu lộ của kinh đô, tháng 02 Ất sửu (tháng 3.1865):

“… Tri huyện Thành Hóa tỉnh Quảng Trị là Nguyễn Duy Tự, xin đem quân đi xếp đặt công việc ở bảo Trấn Lao […] [*].
Vua […] nhân bảo bộ thần rằng: “Nguyễn Duy Tự không phải là người trọng hậu, tựa như người hiếu sự, ở nơi biên viễn, mà không được như Nguyễn Văn Tường, thì lợi chưa thấy, mà hại lại sinh ra, hối làm sao kịp”. Bèn sai Thân Văn Nhiếp và Nguyễn Văn Tường thương lượng suy xét. Văn Nhiếp xin cho Nguyễn Văn Tường và Trần Đình Túc cáng đáng việc ấy, và đặt thêm chức tuyên phủ sứ, chọn người thổ trước [**] để sửa sang các công việc.
Nguyễn Văn Tường nói:
“Các châu ở Thành Hóa đất liền với kinh đô, đời đời làm phên che giúp đỡ, sản vật có thể dùng được, dân phong có thể sai khiến được, há nên cho là các châu nên ràng buộc qua loa. Còn về rừng sâu khí núi độc, thì có người đã ở quen, chịu đựng nổi; dân Man không biết gì, thì lấy sự dễ dãi để thân cận họ; biên viễn là việc quan hệ, thì đã có viên đại viên để trông coi; lại khoan cho kỳ hạn, cho được tùy nghi, sửa sang dần dần mới mong có thành hiệu. Các điều khoản như Thân Văn Nhiếp đã tâu xin, tưởng công việc ngày nay, chủ chốt không qua các điều ấy. Trần Đình Túc chưa từng kinh lịch nơi đó nhưng địa thế, dân tình ở phủ hạt ấy rất là biết rõ. Thần sinh trưởng ở đất ấy [Quảng Trị – TXA. ct.], trước kia đã làm tri huyện ở đó [huyện Thành Hóa (Cam Lộ) – TXA. ct.] hơn 9 năm, năm ngoái lại đi khám xét, thì [tuy rằng – TXA. ct.] Trần Đình Túc là người giỏi giang quen việc, tôi [:các bề tôi – TXA. ct.] không thể theo kịp được, nhưng về tục xứ ấy, tình người Man, thì Đình Túc chưa được hiểu rõ như thần. Xin cho thần đổi chức tuyên phủ sứ, và kiêm cả chức khuyến nông; phàm công việc nên làm ở bảo Trấn Lao, thì đốc sức cho huyện viên sửa sang; còn ruộng nương, việc trị thủy, đời sống của dân, điều lợi điều hại thì hội cùng với đạo thần [:các quan cai quản ở đạo, một đơn vị hành chính nhỏ thua một tỉnh – TXA. ct.] thương lượng mà làm. Chức kinh doãn có khuyết, hoặc cho Trần Đình Túc kế thay, nhưng kiêm coi cả công việc doanh điền”.
Vua lại hỏi Trần Đình Túc, Túc cũng cho là phải, lại tự xin trông coi việc ấy tự trước đến sau.
Vua cho là chức kinh doãn và doanh điền, đều chưa có công hiệu, cũng chưa rõ người có tài năng hay không, bèn sai [Nguyễn Văn Tường – TXA. ct.] giữ chức cũ; Trần Đình Túc thì kiêm biện cả nông điền thủy lợi ở Quảng Trị; còn các việc trọng đại về doanh điền của phủ đạo nên cùng với Nguyễn Văn Tường thương lượng bàn định tâu lên, và hội đồng lựa chọn viên quản đạo, viên huyện”.

(ĐNTL.CB., tập 30, Nxb. KHXH.,
1974, tr. 171 – 172).

[*] Kí hiệu […]: các câu, chữ xét thấy không cần thiết, do đó, xin mạn phép lược bỏ. TXA.
[**] Người thổ trước: người địa phương; từ đời tổ tiên, dòng họ người đó đã bám trụ (khai hoang, lập làng) ở địa phương ấy (thổ: đất; trước: bám trụ). Ở vùng bên trong Đèo Ngang, người địa phương ở đấy là những người đã Nam tiến, sớm nhất là từ sau khi Chế Mân dâng ba châu Bố Chính, Ma Linh, Địa Lí để làm sinh lễ (1306, đầu thế kỉ XIII). TXA.

4. Nguyễn Văn Tường làm khâm phái, bang biện huyện Thành Hóa, bắt đầu xây dựng Tân Sở và hệ thống thượng đạo, tháng 10 Bính dần (tháng 11.1866):

“Quản đạo Quảng Trị là Nguyễn Quýnh dâng sớ bày tỏ mọi việc:
+++ Xin dời kinh đô;
+++ Xin đem các tỉnh lên thượng du;
+++ Xin từ Nghệ An trở vào Nam, khai khẩn miền thượng du, đem dân đến ở để mở mang.
Vua bảo rằng: “Dời các tỉnh thành sợ nhiều việc hoang mang, hoặc làm dần dần, mới khỏi tiếng tăm, mà khỏi chia quân đóng giữ; di dân không tiện; việc dựng kinh đô trước đã có người nói, cũng ngại tiếng tăm, nhưng xét kỹ lúc có việc khác với lúc không có việc; nước Trung Quốc có hai kinh đô, nhà Thanh đóng đô ở Yên kinh, lại có Thịnh kinh là đất khởi nghiệp cũ, cũng là dự tính trước; nhưng động làm tất nhiều lời nói không căn cứ, chưa hợp thời thế”.[…].
Quýnh lại xin đặt một đồn ở Ba Xuân tỉnh Quảng Trị (cách Thành Hóa một ngày đường), phái quan quân đóng ở đấy, chiêu tập dân đến ở. Quan Viện Cơ mật cho là chỗ ấy gần với nước Cao Man, làm đồn đóng quân, không khỏi làm cho nước ấy nghi ngờ; xin xét tình thế khuyên mộ dân, mở mang dần dần việc tiến đặt, đợi khi quả thực, dân tình vui theo, người man không ngờ, mới nên đi kinh lý. Vua bảo rằng: “Trước Nguyễn Văn Tường cũng xin làm việc ấy, tất phải làm theo lời nói; chuẩn cho làm bang biện huyện Thành Hoá để làm việc, cấp cho ấn “khâm phái quan phòng”, cho được tự ý tư tâu”.

(ĐNTL.CB., tập 31, Nxb. KHXH.,
1974, tr. 86 – 87).

5. Nguyễn Văn Tường phòng thủ trước việc thực dân Pháp xâm chiếm đất hoang, tháng 11 Bính dần (tháng 12.1866):

“Bang biện Thành Hoá huyện vụ là Nguyễn Văn Tường tâu nói: Đồn Trấn Lao hơi có lam chướng, nhưng đất rộng dân thuần, không khác gì trung châu; lại nghe người Tây sắp phái người chiếm đất hoang ở đằng sau núi, nên phải tính ngay; xem ra mạo lam chướng, vỡ đất hoang […], thì thế dễ đề phòng, mà đất bỏ không ở biên giới, đều có chia giữ, cũng là việc cần phải chiếm đất khai hoang trước. Vua y cho”.

(ĐNTL.CB., tập 31, Nxb. KHXH.,
1974, tr. 89).

6. Nguyễn Văn Tường tâu bày về công việc sơn phòng đạo Cam Lộ, trong đó có việc mở thượng đạo Bình Định – Nghệ An, tháng 12 Bính dần (tháng 01.1867):

“Bang biện huyện Thành Hóa là Nguyễn Văn Tường tâu bày 6 điều về việc sơn phòng đạo Cam Lộ:
+++ Xin đem binh đội Thiên Thiện và binh đồ tù các tỉnh đạo, đều phát đến cơ Định Man; chọn người cai quản, cấp cho lương ăn để khai khẩn ruộng đất.
+++ Xin ở Sơn Tây tỉnh Bình Định và Trấn Ninh tỉnh Nghệ An, mở con đường ở thượng du thông đến Cam Lộ, để chống giữ lẫn nhau.
+++ Mộ thêm cơ Định Man; các quản suất, thưởng cho phẩm hàm; và gạo lương của lính mộ, xin theo lệ làm việc; sau thành nền nếp, mỗi đội đặt làm một làng, ruộng vỡ hoang cho lấy một nửa làm thế nghiệp, nửa sung làm ruộng công; có người tình nguyện mộ dân làm nhà ở khai khẩn, thì cấp thực cho tiền 10 quan, cho vay 35 quan, 3 năm phải nộp trả lại, mộ được dân nội tịch cho được trừ, biên là chính mộ, đều chiểu lệ thưởng hàm; và mua trâu giao người phu mộ chăn nuôi, để giúp việc cày cấy.
+++ Quan kinh thu thuế hàng hóa của người Kinh, người Man ở trường mậu dịch, xin đình chỉ; nhưng phái 2 người thanh liêm, công bằng, lãnh tiền công mua hàng hóa, cùng với người Kinh, người Man trao đổi, lấy lãi giúp vào chi phí; và cho người Kinh lãnh trưng; thị trường chọn chỗ làm ra chỗ khác.
+++ Xin đem 2 tổng An Lạc, Bái Ân thuộc huyện Do Linh, nửa tổng An Đôn thuộc huyện Đăng Xương và các phường ở thượng nguyên [vốn – TXA. ct.] từ nơi khác đến ở, xin đổi lệ thuộc vào huyện Thành Hoá; lần lượt dời làm huyện nha.
+++ Xin rút số lính cơ 2 phường Bảng Sơn, Mai Lộc lại về ngạch hộ lấy gỗ, chịu nộp thuế gỗ, nhưng đem giản binh 2 làng Cam Lộ, Châu Lạng cùng với dân có tên trong sổ đồn điền vào số lính cơ Định Man còn thiếu.
Vua nghe theo”.

(ĐNTL.CB., tập 31, Nxb. KHXH.,
1974, tr. 103 – 104).

7. Bản sớ Nguyễn Văn Tường thay mặt sứ bộ vạch trần âm mưu xâm chiếm lục tỉnh Nam kì của thực dân Pháp, tháng 3 Mậu thìn (tháng 4.1868):

“Lúc trước tướng Pháp bức lấy ba tỉnh An Giang, Hà Tiên và Vĩnh Long, định lại điều ước mới, đem tờ thay đổi đến bắt ta phải đóng ấn kí tên; rồi sau [vua – TXA. ct.] sai sứ cùng với hắn sang Tây; đình thần bàn lấy thượng thư Bộ Lễ Nguyễn Văn Phong làm chánh sứ, tả thị lang Bộ Lễ [vốn – TXA. ct.] sung làm việc Nội các là Phan Đình Bình sung làm phó sứ, bang biện huyện Thành Hoá gia hàm thị độc học sĩ là Nguyễn Văn Tường sung làm bồi sứ, đến Gia Định bàn với tướng Pháp, đi đến thành Ba Lê thương thuyết với triều đình nước Pháp, (nói cho chuộc ba tỉnh trước; trả lại trong [phạm vi – TXA. ct.] ba tỉnh, vẫn phải nhường trong [phạm vi – TXA. ct.] ba tỉnh thì tha hết tiền bồi thường), và đi khắp các nước Anh-cát-lợi, I-pha-nho xem xét tình hình hiện tại của [các – TXA. ct.] nước ấy, về tâu trả lời.
Đến nay Nguyễn Văn Tường đến kinh, cùng với Văn Phong, Đình Bình, làm sớ nói:
“Ba tỉnh Vĩnh Long, An Giang, Hà Tiên đã vào trong bụng người, hình cách thế cấm, ta đã khó giữ được, mà người Tây cũng coi là vật ở trong túi; năm trước Dô-du-anh-đê [Drouyn de Lhuys – TXA. ct.] thường cùng Phô-na [Bonard – TXA. ct.] từng đến yêu cầu ta giao cho, gần đây Gia-lăng [De la Grandière – TXA. ct.] lại nói là sáu tỉnh ấy không thể cắt đứt được, thì mưu kế thôn tính, tưởng nước ấy cùng hội bàn từ lâu; tỉnh Gia Định hiện nay, sửa sang nền nếp đã thành, nước ấy mới lấy đấy làm thế trọng yếu; tuy ta có phí nhiều lời khúc chiết, [chúng – TXA. ct.] đâu có chịu bỏ; nếu hư ứng nhất thời nhường giả ít nhiều, rồi lại bội ước mà lấy, tưởng cũng như việc tỉnh Vĩnh Long trước mà thôi; huống chi sinh việc cầu công là thói thường của quan ở biên giới [:biên thần; ở đây, chỉ tướng Pháp tại Gia Định thuộc Pháp – TXA. ct.], mà ghen công tranh giỏi cũng là lòng người tất có; tướng Pháp mà còn ở lại Gia Định, thì sứ thần đến thẳng [Ba Lê (Paris) – TXA. ct.] làm việc quyền nghị, hoặc còn có cơ; nay hắn đến [Ba Lê – TXA. ct.] trước, thêu dệt che đậy, nước ấy tất uỷ cho hắn cùng nói với ta; nếu hắn vẫn có lòng tốt thì trong khi bàn nói ở Gia Định, tưởng đã làm điều hay cho người, để ơn về mình, đâu phải đợi đến nước ấy mà để cho người khác cướp mất cái tốt ư? Xem thư hắn gửi đến, thứ nhất thì nói rằng: không phải nói nữa; thứ hai thì nói rằng: có hắn ở đấy để cùng chước định; thì ý cự tuyệt nói kín đã rõ; về việc nhường trả đất đai, mười phần đã khó dắt lời; nếu hoặc nước Tây đã lợi về đất đai, mà tha hết tiền bồi thường thì đường đường sứ bộ một nước mà cầu xin chỉ có 40 vạn đồng, không kể không đủ tiền phí tổn, mà ý kiến nhỏ mọn đồn vang, e bị nước láng giềng dòm dỏ; sự tình đến thế thực đáng ngại.
Trộm nghĩ từ xưa nghị hoà, yếu mà xin hoà thì có; nước Pháp đối với ta, chiến thắng, đánh đâu được đấy, thì khó gì mà cùng ta ước hẹn; bởi vì vượt mấy lần biển mà đến, ở đất nước ta, thấy sĩ dân ta phần nhiều đem lòng ngờ vực, cho nên [Pháp – TXA. ct.] tất muốn được khoán ước của ta, cho khiến nước ta tự nhận là trái, để [ta – TXA. ct.] cô phụ [:bỏ mặc trong cô lập – TXA. ct.] tấm lòng mong mỏi của sĩ dân; không thế thì hoà ước năm trước, rõ ràng biết là nhường nào, mà nay cho là hư văn hết, lại cầu định lại; một lần đã là quá lắm, còn làm lại sao được; thà rằng [cứ để cho Pháp – TXA. ct.] tạm bợ mà thành [:không có khoán ước – TXA. ct.], mối lo [của Pháp, khi chúng chiếm cứ 3 tỉnh Miền Tây – TXA. ct.] không gì lớn bằng [vì dân lục tỉnh còn có cớ nổi dậy – TXA. ct.]; sao bằng không thể giữ được thì bỏ đi, mà lo toan về sau; kinh sư là nơi căn bản, đồn luỹ đã kiên cố chưa? Khí giới đã sắc bén chưa? Chí quân lòng dân đã hăng hái chưa? Đường thuỷ, đường bộ phòng bị đã chu đáo, bền vững chưa? Lương quân, khí giới làm sao cho đầy đủ; hào mục, sĩ dân làm thế nào cho cố kết; chỗ nào hiểm yếu mà phải giữ thì phải canh giữ bằng cách nào cho tất bền vững? Hoặc nên đặt viên quan chuyên trách để uỷ làm việc ấy, hoặc nên sai người địa phương để cho am hiểu; phàm những việc ấy tưởng nên tính kỹ, cho thi hành ngay, ngõ hầu khỏi ngại về sau; hoặc thế của ta còn có thể đợi, xin làm quốc thư, cả thư của viên Thương bạc, mỗi thứ một bức đưa cho tướng ấy, xem nước ấy trả lời thế nào mới được”.
Vua nghe lời, sai viên Thương bạc viết thư cho tướng Pháp, rồi phát quốc thư đưa đến nước ấy; sai Nguyễn Văn Tường về Cam Lộ làm việc như cũ”.

(ĐNTL.CB., tập 31, Nxb. KHXH.,
1974, tr. 202 – 204).

8. Tư tưởng chính trị nhân trị, đức trị đi đôi với việc tăng cường quân đội của Nguyễn Văn Tường, trong việc xếp đặt ở Bắc kì, tháng 6 Canh ngọ (tháng 7.1870):

“Nguyễn Văn Tường cũng tâu bày công việc xếp đặt về sau, nói:
“Nam Kỳ, Bắc Kỳ là căn bản của nước; theo sự thế trong Nam, nên tính thư thả; nên trước hết giữ Bắc Kỳ, cho là việc cần; giữ phên giậu ở Cao, Lạng, Thái, Tuyên; giữ rừng biển ở đông, tây, nam, bắc; Hà Nội ở giữa là nơi hình thế danh thắng, trong khi vô sự phải rất chú ý, huống chi giặc trốn coi thường chiến tranh còn nhiều đứa lọt lưới; giặc trước về Tầu, gián hoặc mến tiếc sào huyệt, chưa nên cho là việc đã yên mà bỏ qua. Hiện nay kho tàng công tư đáng phải thương xót, sức lực quân dân cũng gọi là đã kiệt, đợi đến lúc ấy sợ không có cách gì. Người đảm đương công việc thường hay cẩu thả, hình như không để ý tới, bỗng chợt có biến, chỉ lấy quân nhát, dân ngu tự gỡ; ai chịu cái lỗi làm cho dân nhọc, dân oán? Muốn tâu bày thẳng tệ ấy thì nói không thể xiết được; muốn dùng pháp luật để sửa chữa, lại sợ không thể cậy được. Người xưa có nói: “Được một quan huyện tốt, hơn là có 3 vạn quân tinh nhuệ”, là vì không có chính sự hà khắc thì không có phản nghịch lớn. Xin chọn quan văn võ người thanh liêm tài giỏi, đông, tây, nam, bắc, mỗi tỉnh đều 2 người sung làm tổng đốc, đề đốc, lại giao cho 500 quân tinh nhuệ (lính thú, mỗi tỉnh Đường Ngoài 500 tên, một nửa lính kinh, một nửa lính Thanh, Nghệ); ở Hà Nội thì lấy quan đại thần có lòng công bằng, trung trực, biết xếp đặt việc nước, uy vọng rõ rệt, như quan Võ hiển Nguyễn Tri Phương, sung làm kinh lược đại sứ, giao cho 2.000 quân tinh nhuệ để giúp việc đàn áp; các tỉnh ở Bắc Kỳ, việc chỉnh bờ cõi, đốc suất việc binh, xét hỏi quan lại, vỗ yên nhân dân, đều ủy cho đại sứ chuyên việc trông coi; quy chế cũ ở Hà Nội cũng nên theo thời sửa đổi. Như thế, quan chính đính thì dân chẳng ai dám chẳng chính đính, mà Trung châu thế mạnh đủ để trấn áp bọn gian, các tỉnh ven biên giới mới được tính dần công việc xếp đặt về sau; đợi một vài năm công việc được xong, quân có nên rút, do quan đại sứ xét nghĩ thi hành. Không thế thì đại binh ca hát trở về chưa khỏi lại phải chú ý xếp đặt công việc lần nữa. Không dám nói hết, sợ làm tăng sự ngày đêm lo nghĩ của hoàng thượng” ”.

(ĐNTL.CB., tập 32, Nxb. KHXH.,
1975, tr. 31 – 32).

9. Việt gian theo Thiên Chúa giáo mưu bắt Nguyễn Văn Tường để phá hỏng việc Pháp trao trả 4 tỉnh Bắc kì, tháng 11 Quý dậu (tháng 12.1873):

“… Hoắc Đạo Sinh [Philastre – TXA. ct.] thuận nghe, bèn định ngày mồng 8 chạy đến Hải Phòng, dẹp trừ giặc biển.
(Bỗng gặp 20 chiếc thuyền của giặc biển về đậu ở Hải Phòng. Quan thuyền ấy bảo phải nộp hết súng và khí giới, tạm cho sống mà về. Hiện thu được súng bằng đồng 25 cỗ, còn súng đại bác và thuốc nổ chìm hết xuống sông, và các tàu ra biển đều bị tàu Đề Ta Di [Decrès – TXA. ct.] đón chặn đốt giết).
[Khi tàu – TXA. ct.] tiến đến thành tỉnh Hải Dương (trong thành hiện có viên quan một người Pháp và 30 tên lính đóng giữ), nguỵ tổng đốc (tên là Trương, là người thợ rèn theo giáo, nguyên là người An Nghiệp [Françis Garnier – TXA. ct.] mới đặt) mưu bắt Văn Tường để phá hỏng việc; Văn Tường dò biết, mật bàn với quan nước Pháp, giải đưa xuống tàu giam lại, rồi tư ngay cho tỉnh Bắc Ninh, Hưng Yên đem quân đến (Bắc Ninh 400 người, Hưng Yên 200 người) và triệu tập lính tỉnh tổng cộng hơn 1.000 người để sai phái. Đến ngày 12, giao nhận tỉnh thành, tạm đặt quan viên quản trị …”.

(ĐNTL.CB., tập 32, Nxb. KHXH.,
1975, tr. 356 – 357).

10. Nguyễn Văn Tường yêu cầu Pháp giải tán quân ngụy ở Bắc kì, tháng 11 Quý dậu (tháng 12.1873):

“… Khi ấy Văn Tường và Hoắc Đạo Sinh [Philastre – TXA. ct.] ở lại Hà Nội hội với quan Pháp bàn nghị. (Quan Pháp 10 người, đều là bè lũ của An Nghiệp [Françis Garnier – TXA. ct.], muốn cầu công tất cả, phần nhiều ngờ thống sát Hoắc Đạo Sinh nhận của hối lộ). 3 ngày mới định xong, liền triệu tập lính mộ (nguyên trước An Nghiệp mộ được 12.000 người, lẫn cả người đi lương, người đi đạo), cấp phát tiền lương, nhân đấy kiểm thu khí giới, rồi cho giải tán …”.

(ĐNTL.CB., tập 32, Nxb. KHXH.,
1975, tr. 359).

11. Nguyễn Văn Tường với ý thức và hành động canh tân Đất nước: tìm mua và dâng tiến sách tiếng Tây, tháng 4 Giáp tuất (tháng 5.1874):

“Sứ thần (Nguyễn Văn Tường, Nguyễn Tăng Doãn) tiến 20 tập sách chữ Tây (4 tập Khung giang bát vật đồ chí, 3 tập Lãng sa kỳ đăng hiệu, 11 tập Nam Kỳ điều lệ, 1 tập thuế lệ, 1 tập binh thuyền, trong đó có tập thì tướng nước Pháp tặng, có tập hỏi mua mà quan Tây không lấy tiền). Vua bảo rằng: “Đấy thực là có lòng, có ích, giao Viện giữ cẩn thận, đợi dịch rõ để tiện xem” ”.

(ĐNTL.CB., tập 33, Nxb. KHXH.,
1975, tr. 42).

12. Nguyễn Văn Tường với ý thức và hành động canh tân Đất nước: tiến dâng súng Tây, tìm dùng người biết ngoại ngữ, người có trình độ kĩ thuật công nghệ, tháng 8 Giáp tuất (tháng 9.1874):

Nguyễn Văn Tường từ Gia Định về xin đem súng Tây đã mua được cung tiến (1 khẩu súng lục, 500 viên đạn, theo giá bạc tính thành tiền là 180 quan). Vua khen là nhậy lắm, có thể dùng được, sắc cho giữ cẩn thận để phòng sai phái. Lại đi Nam Kỳ lần này gọi được 5 người thông dịch, 7 người biết máy móc (đều là người Gia Định), tâu xin liệu cấp lương để tiện sai phái. Vua y cho.
(Trước đã chuẩn cho thuê người trong Nam và người nước Thanh biết thông dịch và biết máy móc để dùng, cho nên mới gọi).

(ĐNTL.CB., tập 33, Nxb. KHXH.,
1975, tr. 111).

13. Thượng thư Bộ Hộ Nguyễn Văn Tường cải cách thuế ruộng đất trên cơ sở vì quyền lợi của dân nghèo canh tác ruộng công và vì sự thống nhất kinh tế – tài chính Nam – Bắc, tháng 7 Ất hợi (tháng 8.1875):

“Cho thuế ruộng công, tư, từ Hà Tĩnh trở ra Bắc, chiểu theo thuế lệ từ Quảng Bình trở vào Nam, trưng thu, bắt đầu từ năm sau.
(Quảng Bình trở vào Nam, ruộng công, tư mỗi mẫu hạng nhất 40 thưng thóc, hạng nhì 30 thưng, hạng ba 20 thưng. Mà Hà Tĩnh trở ra Bắc, ruộng công hạng nhất thóc thuế 80 thưng, hạng nhì 56 thưng, hạng ba 33 thưng; ruộng tư hạng nhất 26 thưng, hạng nhì 20 thưng, hạng ba 13 thưng; so với trở vào Nam, ruộng công rất nặng, ruộng tư rất nhẹ, cho nên cho đều nhau)”.

(ĐNTL.CB., tập 33, Nxb. KHXH.,
1975, tr. 220).

14. Nguyễn Văn Tường tâu xin tiếp tục tăng cường việc xây dựng hệ thống sơn phòng ở Quảng Trị như khắp cả vùng rừng núi Trung – Bắc kì, đặc biệt là như sơn phòng trọng yếu Sơn Tây, tháng 10 Ất hợi (tháng 11.1875):

“Đặt nha kinh lý sơn phòng tỉnh Quảng Trị, (văn vũ chánh phó sứ mỗi chức một người), lấy 2 huyện Thành Hoá, Hướng Hóa lệ thuộc vào, theo lời xin của Nguyễn Văn Tường.
(Tường cho là đồn Trấn Lao, huyện Thành Hóa, giáp giới với Long Giang [Mê Kông – TXA. ct.], đất tốt lợi nhiều, có thế khống chế. Trước vâng mệnh kinh lý nhưng không chuyên trách, sau không thành công. Xin châm chước công việc sơn phòng ở Sơn Tây, đặt sơn phòng để được thực tế)”.

(ĐNTL.CB., tập 33, Nxb. KHXH.,
1975, tr. 255).

15. Thượng thư Bộ Hộ Nguyễn Văn Tường tâu bày về việc cải cách thuế ruộng đất Nam – Bắc, phê phán bọn cường hào ác bá, tháng 3 Canh thìn (tháng 4.1880):

“Trước đây, bố chính sứ Bắc Ninh trước là Phan Đình Bình dâng sớ tâu: “Thuế ruộng định lại, quan cho là thuế quân đều, dân bảo là thu thêm. Lại như thuế ruộng tư mỗi hộc thu thêm 1 bát, dân gian nhiều người nói là nặng, khó chịu nổi. Về khoản thu thêm, xin thôi”.
Đến đây, Bộ Hộ tâu rằng:
“Từ Hà Tĩnh trở ra Bắc, ruộng công là ruộng của dân, mà thuế so ra có phần nặng; ruộng tư phần nhiều do bọn cường hào gian ác chiếm riêng, mà thuế so ra có phần nhẹ. Đổi ra làm thuế chia đều, cũng là muốn định ra phép thường, mà cho trong nước không có chính [sách – TXA. ct.] khác nhau; lệnh thuế chia đều được thi hành, tuy thuế ruộng tư tăng mà thuế ruộng công giảm, tức như ba tỉnh lớn Hải Dương, Nam Định, Hà Nội, dân đều thu nộp, yên lặng không lời nào khác. Thì bảo là thu thêm, chẳng qua chỉ là lời bàn riêng của bọn đàn anh giàu có ở một hạt Bắc Ninh mà thôi. Làm việc nước phải tự có thể cách chính đại công bằng, sao được mọi người vui lòng cả; huống chi, ruộng tư thu thêm [mỗi hộc 1 bát – TXA. ct.], chứa riêng vào kho công, để phòng chẩn cấp, cũng là một việc cứu năm mất mùa. Xin theo lệ thi hành, để tỏ chính lệnh tin đúng; đợi sau này kho chứa được nhiều, có nên châm chước miễn cho, sẽ do quan tỉnh ấy xét tâu lên”.
Vua nghe theo”.

(ĐNTL.CB., tập 34, Nxb. KHXH.,
1976, tr. 332 – 333).

16. Thủ đoạn bao vây, cô lập nước ta về ngoại giao của Chính phủ thực dân Pháp, tháng 8 Tân tị (tháng 9 – tháng 10.1881):

“… Lúc bấy giờ, sứ nước Pháp là Lê-na đã sang thay, nói với quan Thương bạc [lúc này là Nguyễn Trọng Hợp – TXA. ct.] : “Trong hoà ước có nói, nước ta có việc, nước ấy phải giúp, tuy không nói rõ là “bảo hộ”, nhưng ý nghĩa đã bao hàm ở trong. Nay khoản ấy Triều đình nước ấy đã định làm, mà làm như thế, nước ấy [nước Pháp – TXA. ct.] không lấn quyền nước ta, chỉ bắt ta không được giao thiệp với nước khác thôi. Ta nếu không nghe, nước ấy cũng bắt làm cho được”.
Triều đình rất lấy làm lo.
Quan Viện Cơ mật – Thương bạc tâu nói: “Tướng và sứ nước ấy để ý đã lâu, nay tính sẽ làm, mưu đã sắp thành, tưởng cũng khó tranh luận khúc chiết với nước ấy, tất phải phái người sang nước ấy hoặc có thể làm việc được … […] … Nước ta nhất định phải đi … […] … Việc ấy nghĩ nên làm ngay, khỏi lỡ việc sau” ”.

(ĐNTL.CB., tập 35, Nxb. KHXH.,
1976, tr. 59).

17. Cơ mật viện – Thương bạc nhận định và vạch kế hoạch mở rộng ngoại giao để phá vỡ âm mưu bao vây, cô lập nước ta về ngoại giao của thực dân Pháp, tháng 8 Tân tị (tháng 9 – tháng 10.1881):

“Quan Cơ mật viện – Thương bạc lại tâu nói:
“Nước ấy đã mưu, không phải một ngày. […] … Ngăn ngừa ta giao thông với nước ngoài, là chỗ giảo quyệt của nước ấy. Duy trong ước có một điều “nước ta muốn định thương ước với nước nào đều được tuỳ tiện” thì nước ấy đâu có thể trái lời ước được. Nhưng ta từ trước đến giờ chưa giao thông với các nước, mà nước ấy không khỏi giữ ngầm ở trong, nên 6, 7 năm nay, các nước chưa nước nào đến định thương ước với nước ta. Gần đây ta cùng với nước Y Pha Nho định ước, giao ước với nhau đã lâu, mà nước ấy [nước Y Pha Nho – TXA. ct.] cũng chưa có đến, thì tình có đáng ngờ, cũng là tình của ta chưa thông với các nước, cho nên nước ấy [nước Pháp – TXA. ct.] mưu làm tự chuyên. Vả lại giao thiệp với nước ngoài thực khó, ta chỉ sợ khích nước ấy, lòng mưu tính ta, vì đó lại phát ra. Nay mưu nước ấy sắp thành, ta há nên không giải quyết sớm, huống chi ta cũng cứ lý mà làm, làm sáng cho chúng biết, có trái ước gì đâu, mà chúng vin cớ để nói được … […] Nhưng tự trước đến giờ thường bị nước ấy ngăn trở, vì ta không có tàu, chỉ đáp tàu với nước ấy, tùy theo nước ấy đi hay đứng mà phải thế. Nay xin sửa soạn tàu của ta, chọn người ở Triều đình có lòng đảm đương công việc, lấy 2, 3 người, lấy cớ đi tìm học về bác vật, như nước Thanh cho người đi học các nước, tư rõ trước cho nước ấy biết. Đến lúc đi thì đến nước ấy trước, nhân chuyển đi các nước Y, Anh, Phổ, Mỹ, khiến cho các nước biết ta tự chủ, nhân đó mà thông suốt tình ý. Tục Thái Tây thích giao thiệp chơi bời với nước xa, ta đến, tự khắc không nước nào không nhận, tưởng cũng có nước muốn giao thiệp thông thương với nước ta, thực khiến cho tình của nước ta thông suốt các nước, thì nước ấy [Pháp – TXA. ct.] không thể tự ý làm càn được. Nếâu nước ấy có lòng nào bắt ức ta, ta cũng có thể cùng các nước điều đình giúp bàn lại, tưởng cũng là một kế đấy… […]Lại việc này còn xa, nay gần mà có thể giao thông được thì ở Yên kinh, sứ các nước đều ở đấy, nhiều lần sứ bộ ta sang Yên kinh chưa biết bàn đến việc ấy, vì sự thể giao tế khác nhau, cho nên khó làm. Nay có Cục Chiêu thương chở hàng thuê, do quan ở Cục ấy giới thiệu, tưởng cũng là một cơ hội. Gần đây tiếp được tin báo Đường Đình Canh tháng này cũng đến, xin do bọn tôi thương thuyết, nhờ viên ấy ngỏ ý với Lý Hồng Chương nhờ mật dò ý sứ các nước Anh, Mỹ, Phổ, để nắm được cốt yếu, thông thuyết giúp cho. Còn sứ Y Pha Nho ở đấy, nước ấy đã định ước với ta, thì nên bàn với họ. Nước Thanh gần đây tranh nước Lưu Cầu với nước Nhật Bản mà không được [vì có sự can thiệp của tổng thống Mỹ Grant – TXA. ct.], nay nước ấy [nước Thanh – TXA. ct.] […] tưởng cùng nòi giống [da vàng – TXA. ct.] với ta cũng lo [lo âu về các nước thực dân da trắng – TXA. ct.], tất hết lòng mưu thực mà việc chóng xong…”.

(ĐNTL.CB., tập 35, Nxb. KHXH.,
1976, tr. 59 – 62).

18. Nguyễn Văn Tường tiếp xúc với sứ giả Đường Đình Canh để tranh thủ sự giúp đỡ của triều Thanh Trung Hoa, nhằm vận động sự ủng hộ của sứ thần các nước tại Yên Kinh, tháng 12 Tân tị (tháng 01 – tháng 02. 1882):

“Vua cho là quan nước Thanh vào yết kiến, sợ sinh ngờ, bèn cho Nguyễn Văn Tường bàn kín với Đường Đình Canh.
Đình Canh nói: “Tháng 10 năm nay, khâm sai nước Thanh đóng ở nước Anh là Tăng Kỷ Trạch báo tin rằng: Nghị viện nước Pháp bàn kín, Bắc Kỳ nước ta đất cát màu mỡ, núi sông lại có mỏ vàng, bạc, đồng, sắt, than đá, xét ra tình thể, chỉ giở bàn tay là xong. Lãnh sự nước Pháp là Thoát Lãng lại đã xin đem 1, 2 nghìn quân đánh lấy Bắc Kỳ. Nghị viện nước Pháp đã chuẩn y. Chẳng bao lâu tất đem quân nước ấy cùng các đạo quân ở Tây Cống [Sài Gòn – TXA. ct.] khẩn cấp cùng phát đi. Còn nói là đuổi Lưu Vĩnh Phúc chỉ là nói thác ra mà thôi. Vua nước Thanh giao cho các nha môn quân cơ bàn cho thỏa đáng, cho nên tổng đốc tỉnh ấy phái đạo viên ấy báo tin cho nước ta, phải mưu tính ngay để mong giữ được”.
Vua cho là thư của tổng đốc ấy đã hồn nhiên, ta cũng không nên lộ; sai Văn Tường mật dặn Đình Canh 3 việc:
- […] Nước ta đặt quan đón đón chờ ở kinh đô nước Thanh, nếu có việc gì, được tố cáo ở Tổng lý nha môn.
- Ở Quảng Đông, hiện nghe lãnh sự các nước phần nhiều đóng ở đấy […] … Nước ta đặt 1 lãnh sự ở đấy để tiện đi lại buôn bán, thông báo tin tức, nhân cùng giao du với các nước để thông hiểu tình ý.
- Nước ta muốn phái người đi khắp các nước như các nước Anh, Nga, Phổ, Pháp, Mỹ, Áo, Nhật Bản, xem xét và học … […].
[…] … Lại đều đem đồ vật gửi tặng […] … Tổng đốc họ Trương [Trương Thụ Thanh – TXA. ct.] […] đem đồ vật ấy trả lại, nói rằng nhận sợ nước Pháp ngờ, có việc khó giảng thuyết; tổng đốc họ Lý [Lý Hồng Chương – TXA. ct.] cũng lấy thơ và tờ khải đưa cho để tỏ tình cùng khuyên về ý đều phải tự cường”.

(ĐNTL.CB., tập 35, Nxb. KHXH.,
1976, tr. 90 – 91).

19. Đoạn di chiếu của vua Tự Đức về Dục Đức (hoàng trưởng tử Ưng Chân), tháng 6 Quý mùi (tháng 7.1883):

“… Trẫm nuôi sẵn 3 con. Ưng chân, cố nhiên là học lâu trưởng thành, chính danh đã lâu; nhưng mặt [mắt – TXA. ct.] hơi có tật, giấu kín không rõ ràng, sợ sau không sáng; tính lại hiếu dâm; cũng rất là không tốt; chưa chắc đương nổi việc lớn. Nhưng nước cần có vua nhiều tuổi, đương lúc khó khăn này, không dùng hắn thì dùng ai? …”.

(ĐNTL.CB., tập 35, Nxb. KHXH.,
1976, tr. 199).

20. Đoạn di chiếu của vua Tự Đức về 3 phụ chính, tháng 6 Quý mùi (tháng 7.1883):

“… Bọn Trần Tiễn Thành, Nguyễn Văn Tường, Tôn Thất thuyết cùng ta gặp biết, tuy có sớm muộn hơi khác, mà lòng trung thành yêu mến chăm lo như một; từng làm việc nơi cơ yếu đã lâu, thân được chỉ bảo; nếu có gặp việc khó khăn, cũng giải quyết được. Vậy cho Trần Tiễn Thành sung làm phụ chính đại thần; Nguyễn Văn Tường, Tôn Thất Thuyết sung cùng là phụ chính đại thần. Bọn ngươi nên nghiêm sắc mặt đứng ở Triều đình, giữ mình đứng đắn; đốc suất quan thuộc, mọi việc cùng lòng làm cho thỏa đáng; trên giúp vua nối ngôi điều không biết đến, dưới chữa chỗ lệch lạc cho các quan, để Nhà nước yên như núi Thái Sơn; thế là không phụ sự ủy thác …”.

(ĐNTL.CB., tập 35, Nxb. KHXH.,
1976, tr. 200).

21. Đoạn di chúc của vua Tự Đức về Ưng Kĩ (Đồng Khánh), Ưng Đăng (Kiến Phúc), tháng 6 Quý mùi (tháng 7.1883):

“… Trong 3 người con, thì Ưng Chân đã nói rồi. Ưng Kỹ người yếu hay ốm, có tâm tật, học chưa thông mà kiêu ngạo, hay bới việc riêng của người khác, cho lạm thẳng, đều không phải là tư chất thuần lương, theo lời phải; sợ bọn ngươi khó lấy lời nói can được. Duy con út là Ưng Đăng, hầu hạ cẩn thận, biết sợ, dạy được, chưa thấy có vết gì, nhưng tuổi còn ít, đương học chưa thông, đương lúc khó khăn này chưa chắc đã am hiểu. Cho nên trẫm cắt bỏ lòng riêng, theo lẽ công, quyết thi hành mưu kế lớn, là vì xã tắc. Nghĩ ơn nuôi nấng hết lòng, không nên để cho phân biệt, nhưng chưa kịp làm, nay cho sung làm hoàng tử, cho đổi tên là Ưng Hỗ …”.

(ĐNTL.CB., tập 35, Nxb. KHXH.,
1976, tr. 201).

22. Vụ truất phế Dục Đức, tháng 6 Quý mùi (tháng 7.1883):

“Quý mùi, năm Tự Dức thứ 36 (1883), tháng 6, ngày mậu thìn, Nguyễn Văn Tường, Tôn Thất Thuyết bỏ vua nối ngôi, lập em út vua là Lãng quốc công Hồng Dật.
Trước đây, vua mới mất đi chọn nuôi hoàng tử, cùng trước sau nuôi ở trong cung 2 công tử nữa là hoàng tử thứ 2, hoàng tử thứ 3. Vua cho là hoàng tử thứ 3, tuổi còn bé, hầu hạ cẩn thận, biết sợ, rất yêu. Mà về hoàng trưởng tử thì dạy bảo càng nghiêm, thường vì lầm lỗi bị quở. Văn Tường nghĩ hoàng trưởng tử tất không được lập lên làm vua mới khinh thường hoàng trưởng tử [về tư cách đạo đức, quan điểm chính trị – TXA. ct.] mà chỉ để tâm đến hoàng tử thứ 3. Đến nay tờ chiếu để lại cho nối ngôi lại là hoàng trưởng tử, Văn Tường trong lòng không được yên, Thuyết cũng không bằng lòng với tự quân.
Gặp khi tự quân ở điện Hoàng Phúc đem nhiều người riêng vào hầu hộ vệ ở điện Hoàng Phúc và các sở Quang Minh, (đều sai chế bài cấp cho đeo), bọn ấy nhân đó ra vào tự do; các tờ tâu khẩn cấp của các quân thứ các tỉnh tâu lên, có khi để ở trong điện một đêm, vẫn chưa giao ra. Lại trong khi làm lễ điện (cúng vua mới chết) vẫn mặc áo sắc lục cũ, hoặc sai chế ngay các đồ dùng riêng (các thứ quần áo đồ dùng).
Văn Tường bảo kín Thuyết rằng: “Tiên đế đã bảo vua nối ngôi chưa chắc đương nổi việc lớn, lại giao cho ngôi lớn. Nay bắt đầu, cử động đã như thế, huống chi là ngày sau ư? Đó là việc lo riêng cho chúng ta”. Thuyết vốn tính cương trực lại cậy quyền cầm quân liền mật đáp rằng: “Cứ như lời chiếu thì mưu tính là vì xã tắc, bất đắc dĩ mà làm việc nhỏ như Y Doãn, Hoắc Quang (*), cũng là chí của tiên đế”; nhân thế cũng có ý mưu bỏ [phế Dục Đức – TXA. ct.] đi.
Sau rồi vua nối ngôi lại nghĩ trong tờ di chiếu răn bảo có những câu không tốt, không thể truyền bá cho mọi người nghe; triệu các phụ chính đại thần, cần bớt một đoạn ấy đi, không tuyên lục ra. Trần Tiễn Thành bảo thế cũng ổn, 2 người đều thưa rằng: “Xin nhà vua quyết định”; vua nối ngôi tin là cùng bằng lòng, bèn sai sao tờ di chiếu, tự tay xóa bỏ đoạn ấy đi; dặn Trần Tiễn Thành nhớ mà làm. 2 người ra bàn kín với nhau rằng: được rồi; mưu ấy bèn nhất định.
Đến lúc tuyên đọc tờ chiếu, Văn Tường cáo ốm không đứng trong ban chầu, Thuyết đứng vào bên Trần Tiễn Thành. Tiễn Thành đọc đến đoạn ấy, đọc nhỏ hàm hồ không rõ. Văn Tường ở chái bên đông, làm ra vẻ quái lạ, nói rằng: “Vua nối ngôi sao được giấu bớt di chiếu của tiên đế? Bậy bạ không gì to hơn nữa; còn có thể nối theo tôn miếu xã tắc được ư?”.
Tuyên đọc xong, hai người hỏi vặn Tiễn Thành; Tiễn Thành biết là bị chúng đánh lừa, nói chữa rằng: “Có phải không đọc đâu, nhưng lão phu có bệnh ho, đọc đến đây hết hơi tiếng nhỏ mà thôi”. Thuyết chứng tỏ là không phải, cho là càn bậy, cũng như lời của Văn Tường nói; rồi nhân phái quân túc vệ canh gác trong ngoài cung thành rất nghiêm (bắt hết cả người riêng của vua nối ngôi là bọn Nguyễn Như Khuê, hơn 10 người, giao cho đem gông cùm lại). Họp hoàng thân và các quan ở Tả vu, 2 người tuyên bố về việc tội lỗi của vua nối ngôi, xin bỏ đi, lập vua khác. Tiễn Thành muốn can ngăn, Thuyết trừng mắt nhìn, nói rằng ông cũng có tội to, còn nói gì.
Trong khoa đạo có chưởng ấn là Phan Đình Phùng [**] tiến lên nói rằng: “Vua nối ngôi nếu có lỗi, chưa thấy can ngăn, đã vội bàn như thế; việc bỏ vua, dựng vua là việc to, lại dễ dàng quá thế”. Thuyết quát lên, sai tả hữu đem Đình Phùng trói để ở trại quân Cẩm y, bảo đợi để nghiêm trị. (Lúc bấy giờ, 4, 5 người theo sau Đình Phùng nghe Thuyết thét trói Đình Phùng tức đều lui tan), cho nên Tiễn Thành và hoàng thân, các quan không ai dám trái; rồi cùng ký tên tâu xin ý chỉ của Từ Dụ thái hoàng thái hậu truất bỏ đi.
Sai người đưa vua nối ngôi về chỗ cũ là Dục Đức đường, canh phòng rất kỹ.
Khi mật bàn người được lập, Văn Tường để ý đến hoàng tử thứ 3 mà Thuyết thì cho là hoàng đệ Lãng quốc công có tư chất thông minh, vốn quen biết sẵn, để ý đến Lãng quốc công. Văn Tường tính là không tranh nổi, cũng theo lời ấy, rồi đem ý xin lập vua nhiều tuổi tâu trước với cung Gia Thọ (tức là Từ Dụ thái hoàng thái hậu) để lãnh chỉ. Được ý chỉ truyền rằng: “Hiện nay trong thì lo về vua mới mất, ngoài thì có giặc ngoại xâm, người ít tuổi thực không đương nổi, nhưng thân này già cả, sao biết được, phần nhiều nhờ Tôn nhân, phụ chính, đình thần, cùng nhau chọn các hoàng đệ, ai nên lập thì lập lên làm vua”.
Thuyết bèn đến phòng Cơ mật bảo bọn thượng thư Nguyễn Trọng Hợp, thị lang Lâm Hoành, Trần Thúc Nhận [Nhẫn – TXA. ct.], Hoàng Hữu Thường, thị vệ đại thần Tôn Thất Thái rằng: “Ngày nay phi tìm vua nhiều tuổi cho xã tắc, không ai hơn Lãng quốc công; các ông nên phải nói”.
Lúc bấy giờ bên ngoài nghe tin cấp báo đương gấp, chợt có biến bên trong, đều không ai biết làm thế nào; đến khi hội bàn ở Tả vu, Văn Tường và Thuyết hỏi trước các thân phiên, hoàng thân thì đều nói rằng: “Tuy cũng ở trong tôn thống, nhưng ngày thường mỗi người ở riêng một nhà, không biết rõ được; xin 3 đại thần cùng đình thần liệu bàn”. Tường, Thuyết lại hỏi; đình thần nói ngày nay việc không thể hoãn được. Trọng Hợp bèn nói trong các hoàng đệ có Lãng quốc công, vốn khen là người có học, được tiên đế cho sung chức Tôn đài; nay hiện việc như thế, chưa biết Lãng quốc công có đương nổi không? Lãng quốc công đứng dậy khóc nói rằng: “Tôi là con út của tiên đế, tư chất tầm thường, thực vạn vạn phần không dám nhận”. Văn Tường và Thuyết đều nói rằng: “Đấy thực là phúc của xã tắc, xin đừng từ chối”; bèn cùng các quan ký tên tâu xin ý chỉ của thái hoàng thái hậu, lập Lãng quốc công làm vua”.

(ĐNTL.CB., tập 35, Nxb. KHXH.,
1976, tr. 205 – 209).

(*) Y Doãn đuổi vua là Thái Giáp ra ở Đông cung 3 năm, sau lại đón về cho làm vua. Hoắc Quang làm tướng, bỏ vua là Xương Ấp vương, lập Hán Tuyên đế làm vua (xem Bắc sử) [chú thích của Viện Sử học].
[**] Ngay sau đó, Phan Đình Phùng đã hiểu rõ sự thể, nên năm sau (1884), ông lại được Nguyễn Văn Tường, Tôn Thất Thuyết trọng dụng trong việc tiếp tục tổ chức, xây dựng, kiện toàn Sơn phòng Hà Tĩnh. Xin xem: ĐNTL.CB., tập 36, Nxb. KHXH., 1976, tr. 184 – 185. TXA.

23. Tập tâu của nhóm chủ chiến (Nguyễn Văn Tường, Tôn Thất Thuyết), tháng 6 Quý mùi (tháng 7.1883):

“Quan Viện Cơ mật lại tâu:
“Ta cùng với nước Pháp, mạnh yếu khác nhau, cho nên trước thì 3 tỉnh, sau rồi 6 tỉnh Nam Kỳ đã bị chúng chiếm cứ. Vừa rồi, đến Bắc Kỳ lấy 4 tỉnh rồi lại trả liền, nay lại lấy Nam Định, Hà Nội mà chiếm cứ. Hoà ước rõ ràng, mà chúng dám coi thường như thế, thì hoà ước cũng không đủ cậy. Ta đã chịu khuất, không dám tranh đua sức mạnh, mà chúng cũng chưa từng thương kẻ yếu. Tuy thông sang Vân Nam, là nguyện vọng của chúng, nhưng việc mượn đường chưa chắc là thực cả. (Vừa rồi nghe tin nhật báo: nói muốn đến Thuận An bắt hiếp phải hoà); đấy là do một vài kẻ [thực dân – TXA. ct.] cầu công, nguyên không phải do [Quốc hội – TXA. ct.] nước ấy cùng bàn, mà ta chỉ lần chần nhát yếu, không dám làm gì, dần dần đến cái thế không thể làm được. Nay nhờ tiên đế đưa thư cho nước Thanh nói rõ nghĩa lớn, Lý Hồng Chương trù lượng phái quân sang, làm thanh thế cứu ứng ở xa, cho nên chúng chưa thể nuốt được. Nhưng hiện nay thế thành ra cưỡi hổ, tên đã ở cung, nếu không đánh tan sào huyệt, thì chúng có thì giờ mưu tính, không những yêu sách nhiều cách; Lý Hồng Chương ngại về điều đình, mà [quân Pháp – TXA. ct.] đến cửa Thuận An bắt hiếp phải hoà, ta cũng khó giành được phần thắng.
Xin lại giáng dụ nghiêm sức các quan quân thứ chia quân tiến đánh, cho chúng nhọc về phòng bị, không có thì giờ mưu tính việc khác, thì ta mới giữ vững để đợi nước Thanh xử trí”.
Vua bảo rằng trí khôn mọi người đã định, việc thành là ở quả quyết, tạm nghe theo”.

(ĐNTL.CB., tập 35, Nxb. KHXH.,
1976, tr. 215).

24. 3 đại thần đã xin vua Tự Đức bỏ bớt đoạn răn bảo Dục Đức, Tự Dức không đồng ý; nay xét xử tội “truyền tả chế thư sai lầm” của Trần Tiễn Thành, tháng 8 Quý mùi (tháng 9.1883):

“Khoa đạo là Hoàng Côn, Đặng Trần Hanh tâu nói: “Hôm trước ở Tả vu điện Cần Chánh, cứ viên đồng phụ chính đại thần là Tôn Thất Thuyết nói rõ, là có một đoạn trong di chiếu của tiên đế răn bảo vua nguyên nối ngôi, vì vua nguyên nối ngôi sao lục ra đã bỏ bớt đi, đại thần Trần Tiễn Thành tuyên đọc cùng bỏ đoạn ấy đi, có phần không phải”.
Trẫm xét: “Ngày tiên đế ngồi tựa ghế ngọc, các phụ chính đại thần đã xin bớt đoạn ấy đi. Tiên đế không nghe, đủ biết là tiên đế nghĩ việc phó thác tôn miếu, xã tắc là việc trọng đại, lo sâu nghĩ xa, cho nên nói khẩn thiết như thế. Đại thần được dự nghe mệnh lệnh dặn lại, phải nên trên thể theo ý của tiên đế mà tuyên bố cho mọi người nghe, lại coi như bỏ rơi; trước đã xin bớt mà không được, nay lại tự bỏ đi mà không đọc” [*].
Tôi cho là: “Vua nguyên nối ngôi bỏ bớt lời di chiếu, chưa chắc đã không phải tự viên đại thần ấy dẫn đường ra trước. Vậy xin giao cho đình thần bàn xét để nghiêm kỷ cương”.
Vua giao cho đình thần bàn, mọi người đều xin chiểu luật “truyền tả chế thư sai lầm” mà xử tội trượng, cách chức.
Vua cho là đời xưa thời bình chính giản, cũng còn dùng người cũ, nữa là ngày nay thời khó khăn, việc nhiều, há nên đem viên đại thần 4 triều, lầm một cái mà không dung thứ ư? Đổi làm giáng 2 cấp, lưu [dụng – TXA. ct.]”.

(ĐNTL.CB., tập 35, Nxb. KHXH.,
1976, tr. 231).

[*] Xin xem thêm: Bản sớ của Trần Tiễn Thành về vụ việc này, trong bài viết của Đào Duy Anh, “Những người bạn cố đô Huế” (Bulletin des amis du vieux Huế, 1944), đã được Bùi Trần Phượng dịch, in trong cuốn “Phụ chánh đại thần Trần Tiễn Thành” của Nguyễn Đắc Xuân, Nxb. Thuận Hóa, 1992, tr. 13 – 87. Bản sớ ấy viết rõ: Nguyễn Văn Tường cho rằng, chiếu lập vua nối ngôi mà kể tọâi Ưng Chân (Dục Đức) như thế, e rằng không hợp lắm, xin bỏ bớt đoạn ấy đi. Trần Tiễn Thành và Tôn Thất Thuyết đều đồng ý, cùng làm sớ xin Tự Đức bỏ. Nhưng Tự Đức không đồng ý bỏ. TXA.

25. Vụ phế truất, thi hành án vua Hiệp Hoà cùng Trần Tiễn Thành và những kẻ đồng mưu câu kết với thực dân Pháp, tháng 10 Quý mùi (tháng 11.1883):

“Ngày đinh sửu, Nguyễn Văn Tường, Tôn Thất Thuyết phế vua và giết đi, và giết cả đại thần Trần Tiễn Thành; lập hoàng tử thứ 3 lên làm vua.
Trước đây, phế đế đã nối ngôi, Tường, Thuyết cậy công tôn lập lên, việc gì cũng chuyên quyền làm bậy [chủ chiến là làm bậy?!? – TXA. ct.]. Vua ghét hai người ấy, muốn tước bớt quyền đi. Cho nên ngoài mặt vẫn hậu đãi, mà trong ức chế cũng nhiều, (như việc đổi Thuyết sang Bộ Lại, không cho giữ binh quyền; lại tờ tâu của 6 bộ, đều giao cho Nội các duyệt tâu, không chuyên giao cho hai người ấy). Gặp khi những người thân tín của vua là tham tri Bộ Lại Hồng Phì, tham biẹân Nội các Hồng Sâm mật mưu việc ấy; Tuy Lý vương Miên Trinh, huyện công Hồng Tu đều có dự mưu (Hồng Tu, Hồng Sâm đều là con Tuy Lý vương). Tường, Thuyết đã biết việc ấy. Vua lại muốn dùng mẹo để 2 người giết nhau. Triệu Văn Tường vào nói chuyện, thì bảo Văn Tường là người trung thành, vẫn rất tin cậy; còn Thuyết rất là ngang ngược, dặn Văn Tường tìm cách bỏ Thuyết đi. Thuyết vào hầu, vua cũng nói thế. Hai người lại ra, đều đem lời nói ấy mật bảo nhau; nhân mưu việc bỏ vua mà lập vua khác.
Thuyết bèn lấy cớ là Thuận An sau khi thất thủ, phủ hạt Thừa Thiên nên tự tìm cách bảo vệ gia hương, phát hổ phù (*) ra mật sai mộ nhiều hương dũng (nhưng sai người thân tín là Kỳ nội hầu Hồng Chuyên, phò mã Đặng Huy Cát chia nhau cai quản) để phòng sai khiến. Người ngoài chưa ai biết cả. Gần đây phái viên nước Pháp nhân hoà nghị đến xin chầu yết, hai người kiếm cớ tránh mặt, không dự việc ấy. Vua lại đặc cách sai Tuy Lý vương chuyên đi lại sứ quán bàn bạc. 2 người ngờ vua đem mưu ấy dặn Tuy Lý vương cầu cứu với người Pháp. Bèn vào ngày bính tý là ngày 29 tháng ấy [**], lúc canh hai, các cửa hoàng thành, kinh thành đã đóng kín, Thuyết thu hết cả chìa khoá cửa. Bèn trước nói dối là đêm ấy nghe nói ngoài thành có bọn bậy bạ họp kẻ dị dạng, xin tự kiểm biền binh, mật phòng bị sẵn, biên ra giao cho quan trực hầu tâu lên. Rồi ngoài thì phát ra hổ phù, sai họp tất cả mộ dũng ở bờ phía nam sông Hương; trong thì đòi gọi các quân đều mang khí giới, do các viên Ông Ích Khiêm, Trương Văn Đễ đi trước, dẫn đến đóng ở Sở Tịch điền. Cho mời văn võ đình thần người nào hiện ở ngoài hoàng thành cũng đến công đường Bộ Hộ (chỗ Văn Tường ở). Hai người bảo rằng: “Lãng quốc công nối ngôi đến nay, làm việc phần nhiều trái phép cũ, lại gần gũi người bậy (ngầm chỉ bọn Hồng Phì, Hồng Sâm, Hồng Tu), người đều không phục. Nay nên xin bỏ đi, đón hoàng tử thứ 3 lên nối nghiệp lớn”. Lúc bấy giờ các quan đều vốn sợ uy lệnh của 2 người ấy, không ai dám nói điều gì khác. 2 người bèn một mặt dự làm tờ tâu, một mặt đem văn võ đình thần chuyển đến Sở Tịch điền, (duy có thượng thư Bộ Công là Đoàn Văn Hội cáo ốm không đến); sai đem tờ tâu lấy chữ các quan ký tên. Lúc bấy giờ đã trống canh tư. Bèn sai Hậu quân là Nguyễn Hanh, thị lang Bộ Binh là Lê Đại, trích phái biền binh đi đến nhà Dưỡng Thiện ở Khiêm lăng, (hoàng tử thứ 3 nguyên ở Dưỡng Thiện đường, ở bên hữu nhà Duyệt Thị gần đấy; rước linh cữu tiên đế để ở điện Hòa Khiêm tại Khiêm cung, Hoàng tử thứ 3 theo đến ở nhà quan xá ngoài cửa Vụ Khiêm, nhân thể cũng gọi [nhà quan xá ấy – TXA. ct.] là Dưỡng Thiện đường), đón hoàng tử thứ 3. Lúc mờ sáng, về đỗ ở điện Quan canh Sở Tịch điền. Hai người cùng các quan ở Sở ấy đều lần lượt lạy mừng.
(Khi ấy bọn Hanh mới đến đón, hoàng tử thứ 3 rất sợ hãi; bọn Hanh ôm lên võng rước đi. Đến khi về đến nơi, hai người nói với hoàng tử thứ 3 là xin lập lên làm vua. Hoàng tử thứ 3 nói rằng: “Ta còn bé, sợ không làm nổi”. Hai người nói rằng: “Tiên đế đã có ý ấy, nhưng chưa kịp làm. Nay là mệnh trời vậy. Xin nghĩ đến tôn miếu xã tắc là quan trọng”).
Đến sáng rõ, (tức ngày đinh sửu là ngày 30 tháng 10), hai người thông báo cho các quan hiện túc trực đêm ấy ở trong Nội (văn trực thần là tham tri Hà Văn Quan, võ trực thần là quyền chưởng doanh Hùng Nhuệ Trần Văn Cư, tham biện Viện Cơ mật là Hồ Lệ, tham biện Nội các là Lê Duy Thụy, thị vệ sứ đại thần là Tiền quân Tôn Thất Thạ) đều đến họp. (Lúc bấy giờ Đoàn Văn Hội cùng đến).
Khi đồng hồ 5, 6 chuyển, vua mới biết là có sự biến; hỏi đến những người trực thần, thì chỉ có vài người cung Thái giám; vội vàng thất thố, không biết làm thế nào, chỉ phải dự phê tờ chiếu nhường ngôi, để đợi.
Đến giờ mùi, hai người đón hoàng tử thứ 3 vào Viện Cơ mật tạm nghỉ; và đem tờ tâu bỏ vua cũ, lập vua mới, tâu lên Từ Dụ thái hoàng thái hậu, lấy ý chỉ để thi hành; lại sai mở cửa mạn tây nam (ngày hôm ấy cửa 4 mặt kinh thành đóng kín cả ngày); cho gọi các hoàng thân, cũng lục tục vào Tả vu. Đến nơi thì ai cũng im lặng, chỉ trông nhau mà thôi.
(Duy Tuy Lý vương, Hồng Tu, Hồng Sâm ở ngoài, nghe biết tin sợ bị vạ lây, bèn đem gia quyến đến chỗ phái viên Pháp đóng ở Thuận An cầu cứu. Hoằng Hoá công Miên Triẹân, Hải Ninh quận công Miên Tằng cũng sợ hãi đi mất. Sau đấy vài ngày Hồng Phì đi công sai ngoài Bắc về, đến đầu địa giới Quảng Trị, nghe biết tin tự cho là nguy, lập tức thuê thuyền đến hội với Tuy Lý vương. Sau vì phái viên Pháp giao trả về, cùng với Hồng Tu, Hồng Sâm, đều bị nạn).
Lúc bấy giờ, vua sai thái giám là Trần Đạt đem tờ chiếu nhường ngôi, yêu cầu lui về chỗ phủ cũ. Hai người giả cách nhận lời, sai Tôn Thất Thạ đem võng đưa vua cùng phi tần nội cung cho về phủ cũ (ở địa phận xã Phú Xuân), nhưng mật dặn riêng Ích Khiêm, Văn Đễ trực [:chực – TXA. ct.] trước ở ngoài cửa Hiển Nhân, đón đường, sai đưa đến nhà Hộ thành, cho uống thuốc độc giết đi.
(Hộ thành nha nguyên trước là Dục Đức đường, mới đổi tên. Lúc bấy giờ, những phi tần đã cho về trước, để hộ vệ đưa vua. Khi đến đấy, Ích Khiêm, Văn Đễ cho thuốc độc vào nước chè dâng lên; vua không chịu uống. Văn Đễ ra lạy khóc, khuyên rằng: “Vua tôi đến lúc biến không thể làm thế nào được”. Vua nói rằng: “Ta lại không được bằng Thụy quốc công à?”; còn lần chần không uống. Ích Khiêm bèn đem nước chè ấy đổ vào miệng vua; lập tức phát lên như người phải gió. Một lúc lâu, Trần Xuân Soạn ra truyền nói rằng: “Nếu để chậm quá, sẽ phải tội nặng”; lập tức lấy tay bóp họng, vua lè lưỡi, lồi mắt ra, rồi vua mới chết. Đến lúc đưa vua về phủ, thấy chỗ cổ họng vua sưng như cái cung giương lên, ai cũng lấy làm lạ).
Ích Khiêm, Văn Đễ vào bảo rằng: “Lãng quốc công đến đấy đã uống thuốc độc chết rồi”. Hai người bèn rước hoàng tử thứ 3 vào ở điện Hoàng Phúc, đợi sẽ chọn ngày tốt, tôn lên làm vua.
Trần Tiễn Thành cùng hai người ấy vẫn không bằng lòng nhau. Trước đây vì việc tuyên chiếu, đã bị 2 người tham hặc diếc móc, giận không quên được. Bọn Hồng Phì mật tâu xin bỏ cường thần, Tiễn Thành cũng có đi lại mật với nhau. (Tiễn Thành đêm thường ngầm đến dinh thự Hồng Phì bàn kín với nhau). Hai người đã biết. Cho nên việc Tiễn Thành cáo ốm xin về nhà riêng, đều do hai người bắt buộc. Đêm hôm trước họp nhau ở Sở Tịch điền, 2 người cũng có đem bản thảo tờ tâu đến tường với Tiễn Thành, yêu cầu phải theo làm việc ấy. Tiễn Thành lại khước từ, nói rằng: “Bỏ vua nọ lập vua kia, sao có thể làm mãi? Tôi đã bãi chức về nhà, không dám dự việc ấy”. Hai người lại càng ngờ mà ghét. Nhân thể đêm ấy cũng sai người đến giết Tiễn Thành ở nhà riêng (nhà ở ấp Doanh Thị Trung).
Ngày hôm sau (tức là mồng 1 tháng 11) hai người tâu xin chôn vua bằng lễ nghi quốc công, giao cho phủ Tôn nhân chiểu lệ chôn cất. Còn Tiễn Thành thì do phủ Thừa Thiên khám biên cho là bị kẻ cướp giết chết. Đến lúc việc phát ra, ai cũng biết là do 2 người ấy sai người giết, mà chả ai dám nói ra”.

(ĐNTL.CB., tập 35, Nxb. KHXH.,
1976, tr. 255 – 260).

(*) Hổ phù là tín hiệu để trưng triệu quân lính (chú thích của Viện Sử học).
[**] Về ngày 29.10 Quý mùi, xin xem thêm ĐNTL.CB., tập 36, Nxb. KHXH., 1976, tr. 63 – 64, đã có trích in trong phần phụ lục này. TXA.

26. Dụ của vua Kiến Phúc (và hai vị phụ chính Nguyễn Văn Tường, Tôn Thất Thuyết) về chủ trương và ý hướng kêu gọi đoàn kết lương, giáo, tháng 12 Quý mùi (tháng 01.1884):

“Vua lại cho dụ đạo Bình (*) [***] ở hai miền Nam – Bắc cùng yên ổn.
Vua, lúc đầu, tiếp nối dòng dõi, vì việc đạo Bình ở các phủ hạt ở Thừa Thiên chưa yên ổn, ra dụ: “Đạo Bình đều là con đỏ của Triều đình, nên yên phận đợi lệnh của Triều đình, chớ nói nhăng làm bậy”. Một thời gian sau thì có thư của sứ Pháp là Săm-bô gửi đến, xin phái cử lính phủ đến bảo vệ giáo dân ở hai xã Thanh Tân và Sơn Quả. [Triều đình – Viện Sử học chua thêm (:VSH. ct.)] chuẩn y, lập tức phái cử (lính phủ) đến bảo vệ. Lại dụ các phủ thần chia nhau đi hiểu tập [giáo dân – VSH. ct.]. Sau đó, công tử Hồng Thành (là con của Chấn Định quận công Miên Trí) cư tập đảng phái, thiêu đốt nhà cửa, giết hại giáo dân thuộc huyện Hương Trà, xã Dương Hòa: thiêu 89 hộ, giết hơn 20 người. Sự việc bị phát giác, án chưa thi hành, Thành bèn đổi ra họ mẹ, đợi đến ngày tế Giao đầu năm mới trảm quyết. Đảng ấy gồm bọn Trương Văn Đức, Trương Văn Định, đều đợi xét đem chém. Còn ngoài ra, đều phải tội đồ, tội lưu. Lại thông báo cho sĩ dân ở Quảng Trị biết để cảnh giới. Sau đó lại báo cho các hạt có nhiều đạo Bình [xung đột – TXA. ct.] từ Nam chí Bắc đều biết. Nhân đấy, lại ra lời dụ cho họ.
Dụ rằng:
“Trời ban ân huệ cho dân, vua phụng theo mệnh trời; những kẻ có tội hay vô tội, ta nào dám trái. Theo trí ấy thì đạo Bình nước ta, tuy đi con đường khác, nhưng cũng là dân của trời, cũng dòng giống, không có gì khác nhau. Xưa nay Triều đình vẫn coi trọng người theo lòng nhân, mọi người cùng nhau yên ổn. Nhưng gần đây, do sự kiện Bắc Kỳ, tin tức bay ra ngoài kinh đô, sĩ thứ, dân chúng nói càn, có kẻ bất bình vì hòa nghị [với Pháp – VSH. ct.], có kẻ phẫn nộ giết hại đạo Tả (*), bàn tán khắp đầu đường ngõ hẻm, ồn ào dao động, sao chẳng biết suy nghĩ sâu xa? Còn như đạo Bình là dân nước ta, chiến hay hòa đã có Triều đình lo toan. Còn như sĩ dân, nếu như có lòng trung nghĩa trong trắng, thì nên yên tĩnh mà đợi lệnh Triều đình. Ta đã lấy lòng trăm họ làm lòng mình, các ngươi sao dám đem lòng mình làm lòng ấy mà lại càn rỡ chia rẽ? Nhiều lần phân chia ranh giới? Các ngươi dám gây rối loạn, để tự mau chóng đi đến chỗ vong ơn. Lẽ thường, [ta – VSH. ct.] vỗ kiếm, giận dữ nhìn mà nói: “Các ngươi sao dám chống lại ta?”; nhưng sự dũng cảm của kẻ sất phu này, không những vô ích mà lại còn có hại. Trước đây, cái án đốt nhà, giết người ở xã Dương Hòa, phủ Thừa Thiên, qua phân giải, thì bọn đầu sỏ và tòng phạm đều đã chịu tọâi chém và tội lưu. Triều đình sao mà dung tâm được. Nay nghiêm sức cho bọn bầy tôi ở các phủ, huyện, tỉnh, từ Nam chí Bắc, lập tức đi xuống các hạt của mình, hiểu tập nhân dân, mọi người đều phải giữ yên phép tắc, không sai một tấc. Những kẻ ghét đạo tôn vương [**] và những người hiếu đạo tôn vương đều cũng được hưởng phúc thăng bình. Qua huấn sức này, nếu như còn chia rẽ, trừ bọn phạm tội ra, lập tức tăng cường thêm trọng trị. Bầy tôi ở tỉnh, phủ, huyện ra huấn sức không được nghiêm thì khó tránh phải tội lỗi, chớ nói là không bảo” ”.

(ĐNTL.CB., tập 36, Nxb. KHXH.,
1976, tr. 58 – 59).

(*) Đạo Gia-tô (chú thích của VSH. ở cuối trang sách bản dịch).
[**] Đạo Tôn vương: Đạo Thiên Chúa (?). TXA.
[***] “Dụ Đạo Bình”, phải chăng là Dụ Đạo (giáo dân) [và] Bình [lương dân]? Từ 1874, đạo tả, dữu dân đã được gọi là “giáo dân” (dân có sự giáo hóa), lương dân được gọi là “bình dân” (dân có lòng hòa hảo); hai từ này đối nhau, đẳng lập, không phản nghĩa. Xem thêm: ĐNTL.CB., tập 33, Nxb. KHXH., 1975, tr.122 – 123. TXA.

27. Tôn Thất Thuyết lập Phấn Nghĩa quân, được Nguyễn Văn Tường cho phép, tháng 12 Quý mùi (tháng 01. 1883):

“Tôn Thất Thuyết lập “Phấn Nghĩa quân”.
Lúc đó, Thuyết muốn lập lính chân tay riêng mình, bèn thương lượng với Nguyễn Văn Tường, nói rằng: “Tiến hành vào ngày 29 tháng 10 là quan trọng nhất” (*) . Hai viên quan này cùng với những đình thần đã dự biết trước nên ai nấy giao cho những người thân thuộc tham dự vào việc hiểu dụ các thân hào sĩ dân kết đảng làm theo. Lần này, qua chọn lọc số người trong đó mà ban thưởng. Ngoài ra tuy chưa được dự vào phái cử, nhưng đều vui lòng đáp ứng. Gần đây, nhiều người làm theo; nay các binh ngạch thiếu nhiều, nên nhân tình hình ấy mà thu dụng họ. Xin hội đồng Binh bộ xét tuyển dụng được bao nhiêu lính (nhưng không được khấu giản), chia làm vệ đội, lượng mà thiết lập quản suất, tùy số mộ được nhiều hay ít mà thưởng phẩm hàm, đặt tên là “Phấn Nghĩa quân”. Số quân đó được khao thưởng và đặt tên riêng; chiểu theo thứ tự, tuyển hai vệ tiên phong, nhưng vẫn lệ thuộc vào các viên quan mà hai vị thần đó ủy nhiệm cho để luyện tập và phân phái. Theo thời kỳ này thì hữu dụng, nên (Tường) cho phép.
Sau đó Thuyết cho Trần Xuân Soạn lãnh số quân ấy”.

(ĐNTL.CB., tập 36, Nxb. KHXH.,
1976, tr. 63 – 64).

(*) Đó là ngày nhóm chủ chiến Triều đình Huế tiến hành cuộc đảo chính lật đổ Hiệp Hòa cùng những kẻ đồng mưu, câu kết với giặc Pháp. Xin xem lại: ĐNTL.CB., tập 35, Nxb. KHXH., 1976, tr. 255 – 260, đã trích in trong phần phụ lục này.

28. Tiếp tục thiết lập Sơn phòng Tân Sở, tháng 12 Quý mùi (tháng 01.1884):

“Di chuyển nha đóng ở Sơn phòng Quảng Trị cùng với nha ở phủ Cam Lộ.
Nguyên Nha Sơn phòng và Phủ Cam Lộ truớc đặt ở địa phận xứ Động Ngang, huyện Thành Hóa. Quan Cơ mật viện tâu rằng: “Sơn phòng của Quảng Trị có thể làm hậu lộ cho kinh đô. […] … Nơi liền với chỗ đất cũ này là ở trên địa phận xã Bảng Sơn, […], địa thế rộng rãi, có thể chứa được một khu kiến trúc lớn di về đây […], phủ, nha cũng xin chuyển đến phòng nội”. (Vua) chuẩn y.
Đến lúc ấy, bèn chuẩn cho đắp thành, đào hào, xây cất nha thự, kho súng, nhà lính, cùng với các toà kỳ đài, pháo đài, chọn nơi di chuyển trấn Lao Bảo […]; thiết lập nhà ở và làm việc cho các quan viên văn võ, đặt ra kho thuốc súng, nhà lính, xưởng voi.
Lại đặt ra kỳ hạn mua muối […] để phân biệt rõ người lạ, người quen […]; … đặt cơ Can Thiện để quản thúc bọn tù khẩn hoang ở đây, quyền suất đội chia đi đồn trú và đào hố để tránh nạn hổ dữ.
Thiết lập đồn Động Chu ([…] từ sườn núi lên đến đỉnh núi phải mất nửa ngày đường, khác nào chiếc thang lên trời […]; địa thế hiểm trở, cho nên đóng đồn ở đây).
Khai quặng sắt (gần sở phòng để tiện việc đúc). […] … (khi đó, sứ Pháp phái người đến xem bản đồ, nói là để chuẩn bị bản đồ toàn cảnh [(!) – TXA. ct.]).
Lại mở hai thượng lộ, phía nam thông đến kinh phủ, bắc thông đến Quảng Trị, sơn phòng, có lẽ ý ấy là muốn củng cố con đường phía sau để bảo vệ kinh sư vậy (tiếp đó, lại đem thuốc súng, vàng bạc, tiền nong về trữ ở (sơn) phòng ấy khá nhiều)”.

(ĐNTL.CB., tập 36, Nxb. KHXH.,
1976, tr. 64 – 66).

29. Vua Kiến Phúc chết, 10 tháng 6 Giáp thân (31.7.1884):

“Vua không khỏe, tháng tư trước, ngọc thể vi hoà, đình thần đã xin vua tĩnh dưỡng, và chia nhau đi cầu đảo các linh từ; sau đó đã khỏe, nhưng chưa được bình phục như cũ; đến ngày mồng 7 tháng này, ngày kỷ mão, mới ngự điện Văn Minh, chịu lễ chầu mừng, ban thưởng lụa hoa cho các bầy tôi có sai bậc, rồi sau lại không được khỏe. Thái y tiến thuốc, không thấy công hiệu. Ngày mồng 10, nhâm ngọ, bệnh kịch; giờ ngọ hôm ấy vua mất ở chính điện Kiền Thành. Hoàng thái phi bèn vời bọn Tôn nhân phủ Miên Định, phụ chính phủ thân đại thần Hồng Hưu, Nguyễn Văn Tường, Tôn Thất Thuyết và Hộ bộ thượng thư Phạm Thận Duật, truyền bảo hoàng đế di chúc rằng:
“Hoàng đế đức mỏng, có em là Ưng Lịch có học có hạnh, hoàng đế như có mất đi, truyền bảo tôn nhân phụ chính nên lấy Ưng Lịch vào nối ngôi lớn, để phụng tôn miếu; lại đại lễ tiên hoàng đế chưa xong, và lấy của dùng chưa sẵn, vậy hợp thành tang lễ châm chước làm được 4, 5 phần mà thôi, chớ cầu thể lệ”.
Bấy giờ, Miên Định công và phụ chính thân đại thần truyền lệnh cho biết. Tôn nhân phủ, văn võ đình thần bèn hợp từ tâu lên Từ Dụ thái hoàng thái hậu; hoàng thái hậu rước công tử Ưng Lịch (là con thứ 5 Kiên Thái vương Hồng Hợi, biện phụng vương ấy), vào nhà tang xưng là tự quân, phàm việc tâu xin tuân hành; chọn ngày lành làm lễ tấn tôn (đó là vua Hàm Nghi) …”.

(ĐNTL.CB., tập 36, Nxb. KHXH.,
1976, tr. 150 – 151).

30. Bản án về Ông Ích Khiêm, cái chết của ông, và sự gia ơn, khai phục cho ông của Triều đình, tháng 7 Giáp thân (21.8 – 19.9.1884):

“Phạm viên (*) là Ông Ích Khiêm chết ở nhà ngục Bình Thuận.
Ích Khiêm, mùa hạ năm ấy, vâng mệnh phải đi khám Sơn phòng Quảng Nam, bị bọn chưởng ấn là Đào Hữu Ích, Nguyễn Doãn Tựu đem việc chỉ hặc (tự tiện bắt lính kinh hơn 50 tên hộ tống và lấy công nữ, đuổi dân cư, xây nhà riêng) giao cho đình nghị; sau thành án, cách bỏ chức tước (nguyên Binh bộ thị lang, phong tước nam), phát đi Bình Thuận sung quân (theo về khoản tự tiện bắt người hỏi tội), thu hết ấn quan phòng cấp cho cũ, khóa tay giải đến chỗ đi đày; khi đi đường đến Quảng Ngãi, bị bệnh nghỉ.
(Nói: Đi theo việc bắt giặc, trải 150 trận, mình bị trọng thương, nay đi đường bị nóng, nhức đau, xin nghỉ lưu lại).
Tỉnh thần là Trần Nhượng y cho hạn xin ở lại. Bộ Hình cho rằng vì tình riêng, khinh thường pháp luật, tâu hặc, phạt Nhượng bị giáng 2 cấp, lưu lại làm việc; sai [Ích Khiêm – TXA. ct.] mỗi ngày phải đi hai trạm, hạn cho đi tới các tỉnh (Bình Định, Phú An, Khánh Hòa), không được hạn lưu lại một khắc; kịp khi tới chỗ đày, phủ thần là Lê Liêm an trí xuống ngục; Ích Khiêm tháng ấy chết ở trong ngục [**]; gia ơn miễn tội sung quân, khai phục Hàn lâm viện thị độc, chiếu hàm cấp tiền tử tuất.

(ĐNTL.CB., tập 36, Nxb. KHXH.,
1976, tr. 163 – 164).

(*) Phạm viên: viên quan bị tù (chú thích của VSH.).
[**] Theo một số tư liệu và theo tộc phả họ Ông, Ông Ích Khiêm đã tự sát trong nhà ngục. TXA.

31. Tiếp tục tăng cường Sơn phòng Quảng Nam, tháng 7 Giáp thân (cuối tháng 8 – tháng 9.1884):

“Tu sửa Sơn phòng Quảng Nam ở xã Dương Hòa, phủ Thăng Bình.
Đồng rừng thượng du có hàng muôn mẫu, đất rất màu mỡ, nhưng vì nước độc, khí nặng, gồm có giặc mán quấy nhiễu, đốc tiễu sứ là Trần Văn Dư xin tăng thêm việc hoàn tụ để cho thế lực tả kỳ được mạnh lên, nên sai tu lý, để chứa muối gạo cho nhiều. Lại định cuộc buôn quế Quảng, chọn những người có hiểu tiếng mán ấy sung làm. Phòng quan coi giữ công việc cấm những người ngoài cuộc không được giao dịch với người mán và vào trong làng mán bóc quế để thu lợi quyền riêng”.

(ĐNTL.CB., tập 36, Nxb. KHXH.,
1976, tr. 165).

32. Thi hành án Dục Đức, tháng 9 Giáp thân (tháng 10.1884):

“Giáp thân, năm Kiến Phúc thứ 1 (1884), tháng 9, mùa thu, Nguyễn Văn Tường, Tôn Thất Thuyết dời để vua mới nối ngôi là Thụy quốc công xuống ngục, rồi giết ngầm đi. Tháng trước, Văn Tường và Thuyết tâu nói: “Gần đây Nha Vệ thành canh phòng hờ hững, nên tên Đình, Chuyên đã vượt được ngục. Vậy tự quân ở lâu Viện Thái y (nguyên tự quân trước bị giáng làm công tử, giam giữ ở đấy), cũng nên làm sớm đi, để khỏi sự trở ngại về sau; xin chuyển dời sang nhà ngục phủ Thừa Thiên để giam giữ cho được cẩn mật”. Tâu lên làm ngay [tâu với vua Hàm Nghi hoặc với Từ Dũ – TXA. ct.]. Các con trai con gái đều cho theo về với mẹ, giao về quê ngoại quản thúc. Nguyên phi Phan thị (tức là hoàng thái hậu ngày nay) bèn cùng với người con thứ bảy (tức là vua bây giờ) [:vua Thành Thái, trị vì trong suốt thời điểm phần sử các kỉ IV, V được biên soạn – TXA. ct.], con thứ 9 là Bảo Đóa (tức là hoàng tử thứ 9 bây giờ) cùng về xã Phú Lương. (Hoàng tử thứ 10 là Bảo Khiêm theo sinh mẫu là Nguyên Văn thị về ngụ ở xã Phú Xuân. Hoàng tử thứ 11 là Bảo Lỗi còn ở trong bụng. Tên các hoàng tử đều theo bộ “sơn”, lần này phải đổi theo bộ “thạch”; nay vẫn viết theo bộ “sơn”). Lương xướng do phủ Thừa Thiên đệ cấp. Rồi hai người bí mật sai không cho tự quân ăn uống. Đến ngày mồng 6 tháng ấy là ngày đinh mùi, giờ thìn, thì tự quân chết ở ngục. Người coi ngục cứ báo là chẳng ăn mà chết; bèn an táng ở cánh đồng xứ Tứ Tây, xã An Cựu, huyẹân Hương Thủy (nay dâng tên là An Lăng)”.

(ĐNTL.CB., tập 36, Nxb. KHXH.,
1976, tr. 172 – 173).

33. Vụ Gia Hưng vương Hồng Hưu câu kết với giặc Pháp, lại can tội loạn luân có quả tang, tháng 9 Giáp thân (19.10 – 18.11.1884):


“Phụ chính thân thần Gia Hưng vương kiêm sung Tôn nhân phủ hữu tôn chính Hồng Hưu bị tội, cách chức tước, phải an trí ở phủ Cam Lộ.
Trước đây, Chấn Tĩnh quận công là Miên Trí tâu hặc vương ấy vì nhân việc tư bỏ việc công, tiết lộ quân quốc trọng sự, gia dĩ thêm thói dâm dục (cùng với công chúa Đồng Xuân can tội tước tịch, đổi theo họ mẹ là Hồ Thị Đốc, thông gian sinh con), mọi khoản giao cho Tôn nhân phủ hội đồng, phụ chính đại thần xét nghĩ; bèn giao Sở Túc vệ giam xét. Nguyễn Văn Tường, Tôn Thất Thuyết lại đem đủ tình trạng vua ấy tâu bày, xin cùng xét nghĩ một thể.
(Tâu nói: “Ngày tháng 6, Giản tông Nghị hoàng đế mất, bọn chúng tôi vâng tuân lời di chúc, chọn lấy ngày 13 làm lễ tấn quang. Trước một ngày đó, sứ cũ Pháp là Lê-na [Rheinart – TXA. ct.] uỷ cho ký lục Hinh tới dinh bọn tôi nói: Nếu tôn Gia Hưng vương lên làm vua thì y thuận nghe, bằng không thế thì y gây chuyện, đem hết gia quyến bọn tôi bắt tội. Bọn tôi trộm nghĩ vì việc lớn của Nhà nước, không dám đoái riêng, một mặt cứ y ngày làm lễ tấn quang, một mặt nói với vương ấy, bằng không tình gì, thì nên uỷ cho báo với sứ ấy đình chỉ, bớt việc, đừng nên ngăn trở sinh ngờ; nhưng vương ấy để lòng đã lâu, không chịu uỷ báo cho sứ ấy. Chước đó không thành, mới đưa thư cho quan binh ấy đóng ở miền Bắc. Ngày 22 tháng ấy, quan tham tán đóng ở miền Bắc xuất đem hơn 10 chiếc thuyền quân, đến Sứ quán đó, đe dọa, toan muốn sinh chuyện, và vào thành đóng giữ. Bọn tôi bất đắc dĩ phải nhấn nhún để định ngôi lớn, xin chuẩn cho quan ấy vào làm lễ tiến yết và cho quan binh ấy vào thành. Từ đó đi, Hồng Hưu lấy bịnh nằm rền trong phủ đệ, không để ý gì đến việc công; trong các hàng thân phiên đã có nhiều người cùng biết. Chấn Tĩnh quận công thửa nói thế cũng do lòng công phẫn. Nay phát ra việc này, tội án thật là sâu nặng, thế mà còn dám kéo dằng dai gần được một ngày. Lê-na hiện đóng ở cửa đồn Thuận An, liền về Sứ quán uỷ người tới dinh chúng tôi, bảo phải khoan tha cho Hồng Hưu về phủ, không thì y gửi điện về nước ấy, không khỏi lại sinh chuyện lôi thôi. Hôm qua tôi [*] và Nguyễn Văn Tường đi đến Sứ quán ấy (Lê-na về rồi), sứ mới [Lý Mai (Lemaire) – TXA. ct.] bảo rằng: “Trước đây về khoản làm lễ tấn tôn và việc Hồng Hưu có người không bằng lòng (ám chỉ vào Lê-na), đưa tin gièm pha đã nhiều. Nước ấy hẳn cũng sinh lòng thiên lệch, nay nên xử trí cho khéo. Vả nước ấy bảo hộ quý quốc, việc triều đã chẳng hề can dự. Duy có việc lớn là lễ tấn tôn cùng với phụ chính đại thần đều là việc quan trọng, nên cho viên ấy [khâm sứ đương chức – TXA. ct.] dự biết, thế mới hợp thể, rồi về sẽ báo tin về nước ấy, hẳn sẽ bằng lòng; còn tội án của Hồng Hưu, mặc dầu quý quốc xử đoán, viên ấy không dám nói các lẽ. Vả Hồng Hưu hệ thuộc là người ý thân của nhà vua, chung lòng nghĩa vui lo”. Xem như sứ Pháp thửa nói thửa làm, thì mối tình thông quan, thực đã không thể che được, duy đương lúc Nhà nước có tang, lòng người chưa định, Cung [Từ Dũ – TXA. ct.] đương lúc đau thương, bọn tôi không dám vào tâu, sợ phiền lòng thánh lo nghĩ mà làm cho dân chúng ngờ hoặc, nín náu lựa theo để nên việc lớn; nay can khoản ấy, vốn không dung giết, mà còn dám như thế, thực đáng khá sợ. Bọn tôi cùng bàn, nghĩ theo lời xin của sứ mới, do Viện tôi nghĩ soạn tờ tư, đệ giao cho sứ ấy và đem cái án của Hồng Hưu để tuân làm”).
Bèn chuẩn như lời tâu. Đến đây án thành, cách bỏ chức tước, phát đi an trí ở phủ Cam Lộ, Quảng Trị. Phòng (nhà) vương ấy có 7 công tử, giáng làm tôn thất, chia giao cho các tỉnh quản thúc. (Tôn Thất Huy, Tôn Thất Diễn an trí ở Cam Lộ; Tôn Thất Chuân, Tôn Thất Dũng giao về Nghệ An; Tôn Thất Linh, Tôn Thất Tân, Tôn Thất Vệ giao về Hà Tĩnh)”.

(ĐNTL.CB., tập 36, Nxb. KHXH.,
1976, tr. 176 – 178).

[*] Bản tấu do Tôn Thất Thuyết viết và đọc. TXA.

34. Tiếp tục củng cố Sơn phòng Hà Tĩnh, dời đặt Nha Doanh điền Quảng Bình, tháng 10 Giáp thân (tháng 11 – tháng 12.1884):

Đắp thêm phòng Sơn phòng ở Hà Tĩnh.
Nguyên trước Phòng ấy ở huyện Hương Khê, trong tiếp với Quảng Bình, Quảng Trị, ngoài thông với Thanh Hoá, Nghệ An. Thượng du lại tiếp với Xiêm La. Nhưng lúc buổi đầu đóng giữ ở đấy chỉ phái có 300 người. Tự Nguyễn Chính sung làm chánh sứ và bọn phó sứ là Phan Trọng Mưu, tham biện là Phan Đình Phùng, trù tính xin làm, đã tư Viện thần chước định: Xây đắp thành luỹ, công đường, tư thất và các nơi kỳ đài, pháo đài; phái vệ binh 830 người chia ban đóng giữ, đặt súng gang, súng lớn 20 cỗ, súng vượt núi 50 cỗ. Phái quân thần cơ 2 đội, đổi phiên nhau phụ đóng giúp việc. Lại mộ lính Mán, tên nỏ thuốc độc, để đủ sai khiến. Phàm việc đều do Phòng thần chuyên làm; như có việc quân hay việc gì khẩn yếu, cho tỉnh thần họp bàn. Đổi đặt Nha Phó sứ ở Đồng Chi, huyện Hương Sơn, vì nơi địa thế bằng phẳng đủ giúp cho sự bền vững; mở hai con đường ở trên: phía nam thông với sách Thanh Lãng đến Sơn phòng Quảng Bình, phía bắc thông với huyện Thanh Chương, đến Sơn phòng Nghệ An.
Dời đặt Nha Doanh điền Quảng Bình.
Nha này ở trang Thanh Lăng, huyện Bố Trạch, phần nhiều thuộc về nhiều trùng núi, không có thung lũng gì. Từ Trần Văn Chuẩn sung làm sứ Nha ấy, sai khám vẽ đồ, xin dời về huyện Phong Niên […], đã do Viện thần tâu chuẩn y cho làm, dựng dinh thự, đắp luỹ đất, đặt pháo đài, đặt tham tá lại dịch, khuyên quyên tiền sung việc chi tiêu, như lệ ở các sơn phòng, mở hai con đường phía trên, phía nam thông với sông Tất đến Quảng Trị, bắc thông cửa Bái Đức đến Hà Tĩnh”.

(ĐNTL.CB., tập 36, Nxb. KHXH.,
1976, tr. 184 – 185).

35. Trước đêm Kinh Đô Quật Khởi, 22 – 23.5 Ất dậu (04 – 05.7.1885):

“Ngày ất mão, kinh thành có việc; Tôn Thất Thuyết kèm vua vâng mệnh 3 cung, ngự giá chạy ra miền Bắc.
Trước đây, đô thống tướng Pháp là Cô-ra-xy [De Courcy – TXA. ct.] đến Tòa Sứ xin dâng quốc thư làm lễ vào chầu yết, nhưng tức trước Nguyễn Văn Tường, Tôn Thất Thuyết cùng tắt [đi không có nghi trượng đại thần – TXA. ct.] sang Sứ quán hội thương. Thuyết thác cớ không đi. Văn Tường một mình cùng Phạm Thận Duật đi. Tướng ấy không nghe, cố mời Thuyết; Thuyết sợ đi, hoặc có việc gì xảy ra chăng; sau bèn không đi; ngày thường cho quân Phấn Nghĩa làm tự vệ cho mình, lại nghiêm sức các quân dinh kiểm soát chỉnh đốn những đồ khí giới, Văn Tường với đình thần cho rằng đó cũng là thanh thế để phòng bị vậy. Đêm ngày 22 tháng ấy, Thuyết ngầm chia quân các dinh vệ làm 2 đạo …”.

(ĐNTL.CB., tập 36, Nxb. KHXH.,
1976, tr. 219 – 220; tiếp liền vào đoạn
trích tiếp theo).

36. Cuộc Kinh Đô Quật Khởi, khuya 22 rạng ngày 23.5 Ất dậu (04 – 05.7.1885):

“… Đêm ngày 22 tháng ấy, Thuyết ngầm chia quân các dinh vệ làm 2 đạo: Một đạo sai em là Trị phòng tham biện (nguyên ở Phòng, Thuyết sức về) Tôn Thất Lệ cai quản, nửa đêm sang đò sông Hương hợp cùng với bọn thủy sư đề đốc và hiệp lý đánh úp Tòa Sứ; Thuyết cùng với bọn Phấn Nghĩa chưởng vệ là Trần Xuân Soạn làm một đạo đánh úp Trấn Bình đài, doanh nam Pháp.
Nguyễn Văn Tường không biết chi hết.
Thuyết phân bổ xong, bèn ở lúc đầu trống canh tư (tức ngày 23) bắt đầu nổ súng ở đài Trấn Bình, tiếng kêu vang động.
(Khi ấy Văn Tường ở Bộ Lại đương ngủ. Binh Bộ thự tham tri là bọn Hoàng Hữu Thường nghe tiếng súng nổ, tức thì đến gõ cửa báo Văn Tường biết. Tường dậy, sợ nói: “Nguy rồi!”, bèn vội vàng gửi tâu xin mở cửa Hiển Nhân và cửa Đại Cung, chạy vào Tả vu, nhưng không biết làm thế nào).
Quân Pháp đóng cửa chặt, lẻn nấp đợi sáng, nhưng từ từ nổ 1, 2 tiếng súng lớn.
(Thuyết khi ấy ở vườn sau điều khiển, Xuân Soạn ủy người báo cho đài Trấn Bình biết quân Pháp đã bị súng ta bắn chết hết rồi; tiếng súng lớn bắn, tưởng là súng quân Pháp ở ngoài sông đài Trấn Bình bắn vậy).
Thuyết lại sai vần súng lớn lên thành chỉ bắn Tòa Sứ. (Cũng bị phá vỡ hai nơi). Đạo quân Tôn Thất Lệ cũng phóng súng bắn cháy các nhà tranh gần Tòa Sứ.
Tới lúc sáng rõ, quân thủy lục của Pháp đều họp súng lớn, xe máy để ở trên đài và trên cột buồm tầu, bắn liền mấy tiếng, ầm ầm như sấm và đạn bay rơi xuống, bị thương trúng chết khá nhiều, và rơi vào các cung điện nhà cửa ở trong hoàng thành và cung thành, gián hoặc có xuyên hoại; bọn lính Pháp lại chia nhau từng toán, đem súng tay ngang ngược bắn phá; 2 đạo quân ở trong và ở ngoài của ta bị tan vỡ cả; trong thành rối loạn).
Văn Tường tâu xin vua và xa giá 3 cung đi ra Khiêm cung tạm thời lánh loạn; (khi ấy Văn Tường đã vào bên tả vu, một lát xin mở cửa Hoà Bình đến chỗ Thuyết điều khiển, nhìn trông biết là thất bại rồi, lại vào Tả vu tâu xin vua xuất hành; trong khi vội vã, chỉ soạn được cái ấn ở ngự tiền, văn lý mật sát và ấn kiềm, 2 quả, với hạng để vàng bạc, đồ đệ đem theo); dùng hữu quân đô thống là Hồ Văn Hiển phù xe; giờ thìn hôm ấy bắt đầu từ cửa tây nam ra.
Văn Tường vâng ý chỉ của Từ Dụ thái hoàng thái hậu và lưu lại giảng hòa, tức thì đi tắt vào nhà thờ đạo Kim Long.
Thuyết ra sau gặp giá, bèn một mình hộ chuyển đến Trường Thi (ở xã La Chử), nhân kèm đi ra ngoài bắc. Thự hiệp biện đại học sĩ là Phạm Thận Duật, thự tham tri Trương Văn Đễ, và Trần Xuân Soạn, Tôn Thất Lệ đều đi theo xa giá. (Khi đó tùy giá chỉ có xe loan và lính biền binh lẻ tẻ chầu chực trên dưới ước 100 người, còn dư các dinh vệ, sau khi thua trận đều tức tìm đường tản về quê quán).
Giờ ngọ, mới đến xã Văn Xá; nghỉ một chút, Thuyết tức thì kèm vâng mệnh vua, đêm qua tình hình vua phải ra đi thông báo cho thiên hạ cần vương [*]; lần lượt tư cho Nam, Bắc tuân làm.
Ngày bính thìn, vua cùng với xa giá 3 cung đến tỉnh Quảng Trị; dừng nghỉ ở hành cung …”.

(ĐNTL.CB., tập 36, Nxb. KHXH.,
1976, tr. 220 – 221 [tiếp liền đoạn
trích tr. 219 – 220 phía trên]).

[*] Đây là Thông tư Cần vương, không phải là Dụ Cần vương duy nhất và chính thức được viết và phát đi vào ngày mồng 02 tháng 6 Ất dậu (13.7.1885).

37. Tình hình ở Huế sau khi vua Hàm Nghi và 3 cung cùng Tôn Thất Thuyết đã đi khỏi, sáng 23.5 Ất dậu (sáng 05.7.1885):

Đương lúc xa giá nhà vua đã đi rồi, quân Pháp lên kỳ đài treo cờ hiệu tam tài; súng bắn vẫn còn ầm vang; quan lại, nhân dân giành nhau tìm cửa chạy ra, rồi tự dày xéo lên nhau, chết và bị thương rất nhiều. Quân Pháp bèn đốt hai bộ Lại và Binh (nguyên là nơi Văn Tường và Thuyết ở đó), và thuốc đạn khí giới bốc lên xông trời (2 ngày đêm không tắt), chia giữ các cửa thành trong ngoài và các kho tàng, cung điện. Ngày phát gạo kho, thuê vát những dân còn ở trong thành và những bọn ở ngoài lẻn vào (đều là đồ vô lại nhòm vào toan lấy đồ đạc của quan tư còn bỏ sót lại), sửa đắp các trại lính làm nơi trú đóng, và nhặt chôn, hoả táng các xác bị chết và bị nạn ở lúc trận vong. Dưới đô thành, nơm nớp sợ chạy”.

(ĐNTL.CB., tập 36, Nxb. KHXH.,
1976, tr. 222).

38. Theo sắc chỉ của Từ Dũ, Nguyễn Văn Tường giảng “hoà” với De Courcy qua trung gian môi giới của giám mục Caspar, 23.5 Ất dậu (05.7.1885):

Văn Tường hôm ấy đã vào nhà thờ đạo Kim Long, bèn cùng với giám mục Lộc [Caspar – TXA. ct.] thương thuyết, cùng đến Tòa Sứ trần tình, cùng bàn nỗi khổ với đô thống Pháp, lại xin giảng hòa. Đô thống ấy cũng nghe lời, dặn phải rước ngay vua và Tam Cung hồi loan về triều.
Buổi chiều hôm ấy, Văn Tường bèn bàn với quan Pháp vào thành tạm đóng (đóng ở trong nhà Bộ Hộ).
Hôm sau (tức là ngày 24) bèn hội đồng yết thị cho 2 nước hòa hảo như cũ. Nhưng cho ở trong thành là không tiện, lại bàn ra Nha Thương bạc, tạm đóng ở đấy làm việc. Bèn đem hiện tình giảng hòa phi tấu nơi hành tại và thông báo cho Nam, Bắc biết.
Lúc đó, trong đô thành nhân dân hãy còn nhốn nháo sợ hãi; bọn gian đồ, phần nhiều đi cướp bóc ở ngoài mặt phố và các nơi làng xóm. Văn Tường nghiêm sức đi tuần ngăn cấm. Viên huyện Hương Trà tức thì bắt được vài tên phạm ở 2 chợ Nam Phố, An Hòa, đem chém đầu bêu ngay để cảnh cáo, các bọn khác nghe tin đều xẹp cả”.

(ĐNTL.CB., tập 36, Nxb. KHXH.,
1976, tr. 222 – 223).

39. Nguyễn Văn Tường ủy nhiệm Phạm Hữu Dụng ra Quảng Trị bàn việc với Tôn Thấât Thuyết, tâu vua biết, định rước xe vua về, ngày 24 – 25.5 Ất dậu (05 – 06. 7. 1885):

“… Văn Tường lại ủy Binh Bộ thị lang là Phạm Hữu Dụng thân đến hành tại, đem hiện tình bàn với Thuyết, tâu vua biết, định xin rước xe vua về; Hữu Dụng đến bị Thuyết ngăn cản. (Thuyết không tâu vua, nhưng dặn Hữu Dụng về báo với Văn Tường, phải nên đoàn kết với quân Pháp; [Pháp – TXA. ct.] không lại lấn áp như trước, thì mới đón xe vua về). Hữu Dụng sợ Thuyết, bèn từ về ngay, không dám tâu vua biết …”.

(ĐNTL.CB., tập 36, Nxb. KHXH.,
1976, tr. 223).

40. Tình hình Thừa Thiên và cả nước, 27 – 29.5 Ất dậu (09 – 11.5.1885):

“Riêng một hạt phủ Thừa Thiên, vì có Văn Tường ở đó giảng hòa và hay hiệu lệnh ngăn cấm, hơi nhờ được yên; còn dư các hạt Nam, Bắc, thì bọn côn đồ tụ họp, cướp bóc nổi lên. Lương, giáo ngày thường thù nhau, sinh ra tàn sát lẫn nhau, nơi nào cũng có. Đô thống Pháp lại yêu cầu Văn Tường để chiêu tập quan lại, thôi bắt binh dân, hiểu bảo cho lương, giáo Nam, Bắc cùng yên và cấm sự xảy ra trộm cướp, hạn đến tháng 2 [ nhị nguyệt: 2 tháng – TXA. ct.] là thanh thiếp”.

(ĐNTL.CB., tập 36, Nxb. KHXH.,
1976, tr. 223).

41. Tập tâu Nguyễn Văn Tường đệ gửi 3 cung về việc hồi loan (về Huế), 02.6 Ất dậu (13.7.1885):

“… Tuần phủ Quảng Trị là Trương Quang Đản vẫn bàn cùng Lương Thành, cho thành Quảng Trị là nơi phong trần, nghĩ xin 3 cung hồi loan, đã tư cho Văn Tường biết làm. Văn Tường được tin báo, bèn gửi thư đến khâm sứ Pháp là Tham-bô [De Champeaux – TXA. ct.] trình bàn với đô thống Cô-ra-xy [De Courcy – TXA. ct.] thoả nghĩ phúc làm. Ngày mồng 2 tháng ấy, tức tâu đệ trước xin ba cung hồi loan ở Khiêm cung, cho yên lòng dân, tịnh uỷ cho biện lý là Trương Như Cương, Tôn Thất Niêm kính đến rước.
(Tập tâu lược rằng [*]:
“Thần là Nguyễn Văn Tường, Tôn Thất Thuyết vâng di mệnh tiên đế cùng sung chức Phụ chính, nay mà hỏng việc, tội thần không nói sao cho hết. Nhưng thần cũng không tưởng rằng Tôn Thất Thuyết lừa dối mình như thế; đến 3 cung tuổi già, nhà vua còn trẻ, lặn lội gió bụi, chịu làm sao nổi. Huống chi kinh thành, miếu điện, lịch đại sơn lăng, một buổi bỏ đi như không, lòng thần tử chịu sao được sự chua xót ấy, nên thần phải tuân theo sắc văn, đem thân lăn lộn ở đây, cùng với quan Pháp đi lại, vì bản tâm của thần, nguyền cùng với xã tắc mất còn, không dám lìa bỏ vậy. Nay tiếp tờ tư của Trương Quang Đản tỏ bày mọi lẽ, đã gửi thư cho khâm sứ Pháp; cứ theo lời phúc tư thì đô thống đại thần rất mong rước vua về. Cũng mong giữ gìn cung điện như cũ. Duy trong thành ấy chửa tĩnh, cũng có người ngầm muốn nổ súng, bằng rước vua vào thành, sợ có chưa tiện, xin hãy ngừng nghỉ ở Khiêm cung. Đô thống ấy xin phái 100 hay 200 quân ở ngoài canh chực, để giữ khỏi sự quan ngại, nhưng bọn quân ấy nên dùng thứ ăn như trâu, dê, gà, vịt mọi thứ, ta cũng ưng cho. Thần trộm chiểu cung điện trong thành dẫu còn như cũ, nhưng số quân Pháp ở đó khá nhiều, chưa được yên lặng, xin trú ở Khiêm cung, tưởng cũng thoả thuận. Thần nghiệp dĩ phái người kiểm soát chỉnh đốn, tịnh uỷ bọn thần là Trương Như Cương đi Quảng Trị chực đón hỗ tòng. Cúi xin mệnh giá hồi loan, để yên lòng dân”.
Cuối cùng viết niên hiệu, mượn dùng ấn quan phòng của khâm sứ Pháp).
Từ Dụ thái hoàng thái hậu và lưỡng cung chuẩn như lời tâu, lấy ngày mồng 3, ất sửu, thì hồi loan. (Phủ thần là Trương Quang Đản đem quan quân, binh phu tỉnh ấy theo đi hộ tống). Ngày mồng 5, đinh mão, về đến Khiêm cung …”.

(ĐNTL.CB., tập 36, Nxb. KHXH.,
1976, tr. 224 – 225).

[*] Xin xem lại: Chú thích (2), bài khảo luận “Nguyễn Văn Tường với nhiệm vụ lịch sử sau cuộc Kinh Đô Quật Khởi (05.7.1885)”, phần đầu sách này.

42. Mật dụ của Hàm Nghi (và Tôn Thất Thuyết) từ Tân Sở gửi về Nguyễn Văn Tường, cùng một ngày phát Dụ Cần vương, 02.6. Ất dậu (13.6.1885):

“… Tôn Thất Thuyết còn giữ giá vua còn đóng ở Phòng Quảng Trị, đã kèm vua ra Lệnh dụ Thiên hạ cần vương, lại sẽ dụ bảo Nguyễn Văn Tường và yên ủi những người họ mạc ở trong kinh, đều một đạo, do đường dịch lộ chuyển chạy về kinh. (Khi ấy tự Phòng đến kinh ống trạm còn chuyển đệ được). Đó đều là việc từ mồng 7 tháng này trở về trước.
Ngày mồng 2 dụ Văn Tường, lược nói:
“Y [Cô-ra-xy (De Courcy) – TXA. ct.] thấy ta càng khuất, y càng ngày càng lấn, khiến Triều đình không còn mặt mũi nào, vạn bất đắc dĩ mà ta mới phải làm cái kế bỏ thành đi ra ngoài. Nay đại thần Tôn Thất Thuyết cùng ta cùng quanh quẩn, còn ngươi là phụ chính đại thần thì ở lại mà thương đàm, kẻ ở người đi đều lấy lòng yêu nước lo dân làm căn bản. Trời đất thực cũng chứng giám. Ngươi nên khéo thể tấm thịnh tình của tiên hoàng đối với nước láng giềng rất có thuỷ chung và cùng y giảng rõ về lý thế, cân nhắc về lợi hại, hết lòng thoả hiệp [:hiệp bàn thỏa mãn đôi bên, không phải “thỏa hiệp vô nguyên tắc” – TXA. ct.], phàm những khoản gì bách thiết, chung nhau bàn đổi, cốt khiến cho 2 nước như anh em, vinh nhục cùng quan hệ, vui lo cùng chung nhau mười phần chân thành, không còn dùng đến uy thuật. Lúc này ta mệnh cho hồi loan, trên để phụng dưỡng ba cung, dưới để yên lòng thần dân, khanh cùng với Tôn Thất Thuyết trung trinh chói lọi, muôn thuở cùng sáng, những phường nịnh tử gian phu, đều phải lặn hình giấu bóng. Nam triều ta há chẳng hân hạnh ư, nước Đại Pháp chắc cũng vui vẻ mà cùng giữ lấy cường thịnh vậy.
Nếu không như thế thì các miếu xã lăng tẩm và các vương công không kịp đi theo ấy thì hết thảy uỷ cho khanh. Ta duy có chọn đất lánh ở, sợ trời vui trời, rường cột cương thường, cả nước cùng thế, không đâu không phải là Triều đình và không phải là tôi con vậy. Trẫm quyết không cùng với họ tranh được thua vậy.
Tình thế ví lại không thôi, trẫm nguyện phái thêm cán viên, lấy đường đi khắp các nơi, nghiêm sắc cho Ninh Bình trở về phía bắc, bao nhiêu quan tỉnh, phủ, huyện đều để ấn lại mà đi, người nào như có trung nghĩa tài lược không kể quan hay dân, đều cho được tiện nghi làm việc [nhân dân, sĩ phu khởi nghĩa – TXA. ct.], cốt không phụ tấm lòng tốt của triều đình dưỡng dục, tác thành, yên được bóng thiêng liêng ở trời của liệt thánh, và đáp phó được nguyện vọng [khởi nghĩa chống Pháp – TXA. ct.] tha thiết của thần dân trong nước. Khanh nên nghĩ cho kỹ nhé, có muốn nên tâu đối, thì gởi theo đường trạm chờ xét cũng chẳng hại gì””.

(ĐNTL.CB., tập 36, Nxb. KHXH.,
1976, tr. 225 – 226).

43. Mật dụ của Hàm Nghi (và Tôn Thất Thuyết) từ Tân Sở gửi về hoàng tộc, ngày 07.5 Ất dậu (18.7.1885):

“Ngày mồng 7, dụ các người trong họ, đại lược nói:
“Dụ Thọ Xuân vương, phụ chính Hoài Đức công và các bọn hoàng phiên, công chúa nghĩ coi: Nước Nam ta nhiều lần bị kẻ khác bức hiếp nhiều khoản, phàm có tai mắt khí huyết không ai là không uất ức buồn rầu, chẳng riêng người trong họ ta mà thôi. Trẫm vâng di mệnh của tiên quân, và các vương công phụ thần cùng suy tôn lên quyền giữ việc nước. Phàm có trăm điều đều duy kiến nghị, phải ấy thì theo. Trẫm tuổi trẻ, kiến thức chưa rộng, dám đâu chuyên trái việc gì, cho nên hễ khi tiếp được thư của nước Đại Pháp gửi đến khoản gì, nếu quá lăng nhục và yêu sách quá đáng, nhân tình không thể chịu được, mật nghe vương công và các phụ chính khuyên bảo, không đâu là không cưỡng tự đau đớn nín náu, chịu theo êm việc, vì muốn bảo toàn xã tắc, để họ mạc lâu dài hưởng tôn quý giàu sang vậy. Không ngờ sứ Pháp ngang ngược ngày thêm, không còn được chút quốc thể, cúi xuống đất, ngửa lên trời, xiết bao hổ thẹn, vạn bất đắc dĩ mà phải làm ra việc này; quay nhìn nơi lăng miếu và các bậc ý thân, thực không biết bao nhiêu là tưởng nhớ, chả biết trong tôn tộc từng có tin đến sự lo xuôi nghĩ ngược của ta không? Nay đã có phụ chính huân thần là Nguyễn khanh [tức là Nguyễn Văn Tường – TXA. ct.] ở lại giảng nói, che chở nhiều việc, hơi được yên ổn; huân thần tâm sự như thế, cáng đáng như thế, thực là đau khổ quá chừng. Nhân vật nước ta, những người trung nghĩa từ xưa, tưởng không hơn được. Trẫm cũng dụ cho đại thần ấy hết lòng bàn tính công việc, tâu chờ quyết định. Vương công đều là cốt nhục chí thân, đều nên thương ta khổ tâm, thể tất ta vô cùng. Phàm việc gì cùng với Nguyễn khanh châm chước thoả đáng, cốt không trái với cương thường của trời đất. Nên được nền bình trị lâu dài của quốc gia, ngõ hầu để được tiếng thơm muôn đời, thế là lành lắm, tốt lắm. Trời đất dài lâu, gặp nhau có hẹn. Nước nhà suy thịnh, gặp hội đổi thay, càng nên trân trọng di dưỡng, để yên tấm lòng xa của người tuổi trẻ. Còn ra sẽ uỷ cho Nguyễn khanh sẽ vì ý thân điều đình cho thoả đáng, vụ được như thường. Phàm người họ ta, cần tin lời ta nhé, thế thì ta mới yên lòng””.

(ĐNTL.CB., tập 36, Nxb. KHXH.,
1976, tr. 226 – 228).

44. Thọ Xuân vương Miên Định làm giám quốc, ngày 08.6 Ất dậu (19.7.1885):

“Ý chỉ 3 cung chuẩn cho Thọ Xuân vương là Miên Định quyền coi việc nước; phàm việc tâu suốt 3 cung, xin chỉ tuân hành …”.

(ĐNTL.CB., tập 36, Nxb. KHXH.,
1976, tr. 229).

45. Dụ của Từ Dũ, tháng 6 Ất dậu (tháng 7.1885):

“… Trong khi vội vã, phụ chính đại thần là Nguyễn Văn Tường, tức thì đem lão cung và xe vua ra thành tạm lánh. Ta nhân dặn thầm đại thần ấy rằng: “Lui cùng với quan Pháp ở trong bàn tính; may được nghe lời và sớm tan quân” …” [*].

(ĐNTL.CB., tập 36, Nxb. KHXH.,
1976, tr. 230).

[*] Trích tiểu sử Nguyễn Nhược thị Bích:
“… Năm 36, Dực Tôn Anh hoàng đế lên chầu trời, vâng ý chỉ 2 cung, sắc dụ đều cho tay thị ấy làm. Năm Hàm Nghi thứ nhất, tháng 5, kinh thành có việc, đi theo 2 cung đi Quảng Trị có bài hát quốc âm Xe vua vào đất Thục [Đường Minh Hoàng tránh loạn đi vào Thục – VSH. chú thích]. Ngày 2 xe cùng về, các sắc phụng chiếu thư, cầm bút viết xong ngay, việc gì cũng xứng chỉ. Năm Thành Thái thứ 4, kính vâng từ chỉ, nghĩ công khó nhọc, tấn phong tam giai Lễ tần. Năm Duy Tân thứ 3, tháng 11, thị chết, thọ 80 tuổi” (Đại Nam liệt truyện, tập 3, bản dịch Viện Sử học, Nxb. Thuận Hóa, 1993, tr. 78). TXA.

46. Bản tấu của Nguyễn Văn Tường phúc tâu lên Từ Dũ thái hoàng thái hậu, khoảng từ 16 – 19.6 Ất dậu (tháng 8.1885):

“Ngày 23 tháng trước, có việc xảy ra. Chiều hôm ấy, thần bàn với quân Pháp vào thành tạm đóng. Ngày 24, hội đồng quan Pháp, yết thị hai nước đã hòa hảo như xưa, quan lại binh dân đều về như cũ.
Từ sau đi, thần hỏi các nơi ở ngoài: từ ngày 23, 24 trở đi, những xã ở gần kinh thành, gián hoặc có bọn cướp bóc nổi lên; đến ngày 26, thần sức cho các viên huyện, rọâng đi tuần trập, bắt được 2, 3 tên phạm, đem chính pháp ngay. Từ đấy đi, bọn côn đồ sợ có uy lẹânh của Triều đình, dần phải liễm chấp; hiện nay dần được ninh thiếp, dân được yên ở; tin tức các tỉnh Nam, Bắc, gần đây đều được cùng thông, cũng không có việc gì khác. Duy [:chỉ mỗi một; chỉ riêng một – TXA. ct.] có Lê Trung Đình tỉnh Quảng Ngãi nổi loạn, rồi cũng yên tĩnh.
Binh dân trong ngoài kinh thành bị thương, chết rất nhiều; người bị thương đều đã lục tục về quê, còn người chết thì quan binh Pháp hoặc đốt đi, hoặc chôn cất, nay đã sạch sẽ.
Đến như điều khoản nghị hoà, quan Pháp bàn nói: Chờ khi rước hoàng thượng hồi loan, giao trả thành trì, mới có thể bàn định được.
Lại như quan viên trong ngoài, gián hoặc có người tài, có người không tài, vốn nên cất, bỏ. Nhưng nay ngôi lớn trong kinh chưa định, hiệu lệnh chưa thống nhất, sự thưởng phạt chưa nên vội ra, xin chờ sau sẽ làm. Và khởi dùng người cũ là việc cần kíp hiện nay, là duy Đình Túc, tuổi gần 80, đi đứng thế khó khoẻ mạnh, Hoàng Tá Viêm, Vũ Trọng Bình lại bị bọn kia ngờ ghét, cũng khó giảng giải. Việc nhiều nguời ít, không biết làm sao, thần chỉ biết hết lòng hết sức thôi. (Việc Lê Trung Đình chép ở dưới)”.

(ĐNTL.CB., tập 36, Nxb. KHXH.,
1976, tr. 233 – 234).

47. Nguyễn Văn Tường đấu tranh với De Courcy, De Champeaux, Nguyễn Hữu Độ về vấn đề bố trí quan chức ở Bắc kì, cuối tháng 6 Ất dậu (7.1885):

“Lấy quyền tổng đốc Hà – Ninh là Nguyễn Hữu Độ thăng thự Vũ Hiển điện đại học sĩ, sung Cơ mật viện đại thần, vẫn sung Bắc kì kinh lược đại sứ.
Khi ấy Hữu Độ đã trở về Hà Nội, đô thống Pháp là Cô-ra-xy [De Courcy – TXA. ct.], khâm sứ là Tham-bô [De Champeaux – TXA. ct.] bàn nói: “Hiện nay Bắc kì lắm việc, Hữu Độ ở đấy hiểu nhiều, nên trao cho điện hàm, sung viện chức, và vẫn sung chức sứ ấy; phàm đốc, phủ, bố, án, ở các tỉnh Bắc kì cho đến các phủ huyện, nếu nơi nào có khuyết, cho do Nha Kinh lược sứ chọn tâu, chờ chỉ định đoạt”. Nhiếp chính Miên Định, phụ chính Nguyễn Văn Tường phúc tâu [lên Từ Dũ và 2 cung – TXA. ct.]: Việc đó là tạm thời, nghĩ nên tạm nghe ý đó mà làm. Văn Tường nhân phụng dụ [của Từ Dũ – TXA. ct.] nói: Trải bày lý do. Lại nói: Do ngươi, tuy việc thoả bàn vụ hợp thời nghi, để xứng với lời khen của người mới được. Vì ý ám chỉ chê Hữu Độ nương tựa vào thế quan Pháp, để được ngôi cao, mà không phải tự bản ý do mệnh lệnh của Triều đình vậy.
(Trước đây, Nguyễn Văn Tường cùng Tôn Thất Thuyết cho rằng Hữu Độ ở Hà Nội phần nhiều hay nịnh hót, quan Pháp rất được vui lòng; Cơ mật viẹân nhiều lần đem việc tâu lên, chuẩn cho khiển giáng hay triệu về, Hữu Độ đều được quan Pháp che chở, rất là đáng ghét.
Ngày tháng 7 năm ngoái, khuyên Bùi Hữu Tạo lấy việc xây sinh từ [của Nguyễn Hữu Độ – TXA. ct.] để tâu hặc, vì muốn nhân đó để đẩy Hữu Độ đến tội. Hữu Độ chứa sự bất bình đã lâu. Gần đây, đô thống Pháp từ Bắc về Sứ quán, tức thì trước mời Văn Tường và Thuyết đến họp. Thuyết ngờ sợ cho là hẳn Hữu Độ đã có ngầm chỉ thế nào, nên mới như thế, cho nên sau không chịu đi; bèn gây hận; đến đây [Hữu Độ – TXA. ct.] về kinh, [ y – TXA. ct.] lại đến Sứ quán, rồi về nhà riêng [của Hữu Độ tại Huế – TXA. ct.], uỷ đón nhiếp chính Thọ Xuân vương Miên Định tới bàn với Văn Tường; và [Hữu Độ – TXA. ct.] gièm [rằng – TXA. ct.], không bàn với Thọ Xuân vương thì đừng đi. Kịp khi Hữu Độ tới Sở Thương bạc mà Văn Tường ở đó, hai người nói chuyện với nhau, đã hơi có ý khiếm hòa [:thiếu hòa khí – TXA. ct.]; Văn Tường phụng dụ này, lời lẽ lại có ý chê ngầm theo kiểu bì lí xuân thu [: bề ngoài với lí lẽ khác nhau như mùa xuân với mùa thu – TXA. ct.]. Hữu Độ tiếp dụ, giận lắm, nhân đó càng thêm để lòng).

(ĐNTL.CB., tập 36, Nxb. KHXH.,
1976, tr. 236 – 237).

48. Vụ Lê Trung Đình ở Quảng Ngãi, đầu tháng 7 Ất dậu (tháng 8.1885):

“… Bình Sơn tả vệ hương binh chánh quản là cử nhân Lê Trung Đình, hữu phó quản là bọn tú tài Nguyễn Tự Tân, Vũ Hội [thuộc võ hội hương binh? – TXA. ct.], và thương biện Nguyễn Văn Hoành cho rằng, xe vua đã ra, lại nghe có Dụ Cần vương, muốn nhân đó dấy quân, tức thì tới tỉnh xin cấp khí giới, lương xướng. Tỉnh thần cho rằng lính hương binh chi canh giữ nơi làng xóm, không ví với lính tỉnh được, không dám tự tiện cấp, đợi chạy giấy mời những quan viên tại quán [quan hưu trí – TXA. ct.] bàn nghĩ sẽ làm. Bọn Đình, Tân bèn chia phát binh phu làm 3 đạo, tất cả hơn 3.000 tên. Trước ngày mồng 2 tháng này, tiến đến tỉnh thành, hiệp quản Trần Tu, thành thủ úy là Nguyễn Côn mở cửa nội ứng, bọn ấy sấn vào tỉnh thành, đem hai viên bố, án ra thành giam trói, thu lấy ấn triện, binh trượng, tiền lương, buông tha tù phạm, trước chém một tên suất đội, 2 tên dân đạo, cất nguyên Tuy Lý vương Miên Trinh (nguyên được giáng tước công, an trí ở trong tỉnh thành này) làm phụ chính quốc vương. Miên Trinh không theo, giả làm có bệnh nằm lỳ không dậy. Bọn ấy bèn đặt những danh chức ngụy là thống đốc, tham tán, đề đốc, lãnh binh, đốt nhà và giết chết dân giáo, làm việc ngang ngược không kiêng nể ai. Quyền tiễu phủ sứ ở Sơn phòng Nghĩa Định là Nguyễn Thân báo với tổng đốc Bình – Phú là Lê Thận (Thận đã ủy cho án sát Bình Định là Lê Duy Cung đi cùng Sơn phòng họp làm), ủy cho Đinh Hội đem hơn 900 biền binh tiến tiễu. Ngày mồng 5 tháng ấy, đến tỉnh chia quân sấn vào thu phục tỉnh thành và ấn triện bố, án, bắt sống được Trung Đình, và giết được bọn Tự Tân tất cả 7 tên, còn dư đều trốn chạy, bèn đưa 2 viên phiên, niết về dinh, tiễu phủ sứ ấy tức thì ủy cho mời các quan viên ở quán (nguyên Lễ bộ thượng thư là Đỗ Đệ, thự đốc Bình – Phú là Nguyễn Trọng Biện [Nguyễn Hiệp – TXA. ct.], tuần phủ Nam – Ngãi là Đoàn Nhượng, biện lý Công bộ là Vũ Duy Tĩnh (nguyên cũ là Văn Thanh)) họp bàn, và tư bàn với tuần phủ Nam – Ngãi là Nguyễn Ngoạn, quyền lưu 2 phiên, niết nhận ấn làm việc, để chờ mẹânh Triều đình, và Trung Đình, chém ngay; rồi người ta báo cho Hộ bộ lang trung biết. […].
Đến đây Cơ mật viện cho rằng Sơn phòng ấy sớm làm tắt được ngòi cơ biến, nghĩ chuẩn theo đặc cách thưởng cất cho Đinh Hội, Nguyễn Thân để tỏ sự khuyến khích. Còn bọn dư đảng nguyên đi theo Trung Đình đã tan về thì miễn khỏi cứu xét” [*].

(ĐNTL.CB., tập 36, Nxb. KHXH.,
1976, tr. 238 – 239).

[*] Vụ Quảng Ngãi (Lê Trung Đình) và vụ Bình Định (Đào Doãn Địch) khác nhau về “ngọn cờ khởi nghĩa”. Lê Trung Đình tôn phù Tuy Lý vương Miên Trinh, một nhà thơ hoàng tộc chủ “hòa”, câu kết với Pháp thời Hiệp Hòa, vốn bị đày vào Quảng Ngãi (mặc dù Miên Trinh từ chối); do đó Nguyễn Văn Tường đánh giá đấy là cuộc “nổi loạn” duy nhất (ĐNTL.CB, tập 36, sđd., tr. 233 – 234). Đào Doãn Địch chỉ thuần hưởng ứng Dụ Cần vương, “bình Tây sát tả” (đánh Pháp và đánh bọn dữu dân trong giáo dân, vốn đích thực là tay sai của thực dân), nên ngầm được ủng hộ (mặc dù De Champeaux thúc giục đánh dẹp), và cuối cùng là được “rộng tha”. Xin xem lại: bài “Nguyễn Văn Tường với nhiệm vụ lịch sử sau cuộc Kinh Đô Quật Khởi, 05.7.1885”. TXA.

49. Vụ Bình Định, tháng 7 Ất dâïu (tháng 8.1885):

“… Tháng trước, thân hào tỉnh ấy cũng nghe hành tại có Dụ Cần vương, mưu dấy quân, bèn họp đem những lính kinh tan về và lính dõng ở dân đốt phá nhà đạo, dìm giết giáo dân, rồi đem binh dân ước hơn vạn người, quanh tới tỉnh thành, yêu cầu cấp cho khí giới (đã bách giám đốc thần là Lê Thận lại cho về dinh), ngụy đặt những danh mục đề đốc, tham tán, lại đi khắp trong hạt giết dân giáo, mộ lính dõng, nói phao lên tiến đánh quân Pháp ở cửa Thi Nại. Khâm sứ Pháp là Tham-bô bàn phái cho khâm sai đã mẹânh, cho Binh bộ tham tri Hoàng Hữu Thường sung phái ngồi tầu thủy Pháp chạy đi. Lúc đó vì đường ngăn trở, phải trở về. Khâm sứ Pháp lại bàn tục phái đổi sai thị lang Bộ Lễ là Ngô Trọng Tố (lãnh bố chính sứ tỉnh ấy về trước, tình thế đã am hiểu) rồi vì đường dịch lộ Quảng Ngãi không đi được, lại sai lãnh bố chánh sứ Quảng Nam là Bùi Tiến Tiên (nhưng lấy án sát Hà Thúc Quán quyền sung bố chánh sứ Quảng Nam, Hồng lô tự khanh về nuôi cha mẹ, là Nguyễn Duy Hiệu sung làm án sát sứ). Thự thống chế Ngô Tất Ninh sung chánh phó khâm sai quản đem quan binh 2 tỉnh Nam – Ngãi 700 tên đi ngay đến, họp làm, đều nhân đường ngăn trở chưa đi được.
Đến đây thự tổng đốc là Lê Thận tâu nói: “Đã họp văn thân quan viên trong hạt ấy hiểu dụ. Bọn ấy đã tản về, xin nên rộng tha, cho yên sự phản trắc …” […].
“… […] Nếu còn giữ thói mê, do các quan đô thống, khâm sai đem đại đội quan binh, không kể lương hay giáo, cũng phải đau lòng đánh dẹp…” ”.

(ĐNTL.CB., tập 36, Nxb. KHXH.,
1976, tr. 241 – 242).

50. Dụ của Từ Dũ và 2 cung, đánh giá cao cuộc Kinh Đô Quật Khởi, tháng 7 Ất dậu (cuối tháng 8 bước sang đầu tháng 9.1885):

“… Từ điều ước tái định [Patenôtre – TXA. ct.] đã được phân minh, khiến nước Pháp trước tự bại hòa gây biến, thì phàm ai ở đất vua, cũng đều thù ghét [giặc Pháp – TXA. ct.], ai bảo là không nên. Không gì bằng cuộc nghĩa cử đêm 22 tháng 5 năm nay …”.

(ĐNTL.CB., tập 36, Nxb. KHXH.,
1976, cuối tr. 244).

51. Dụ của 3 cung về vấn đề lương, giáo phục thù, ít hôm trước ngày Nguyễn Văn Tường bị bắt, cuối tháng 7 Ất dậu (đầu tháng 9.1885):

“… Đến đây lại lấy hai bên bình, giáo còn chưa yên, lại dụ thêm rằng:
“Bình, giáo dù có khác lỗi, nhưng đều là con đỏ của Triều đình, không nên chia rẽ khác nhau. Gần đây, có nhiều việc giống nhau và khác nhau. Người làm dân lương ghét vì không đồng đạo [không cùng đạo thờ kính anh hùng dân tộc, thờ kính tổ tiên lâu đời của người Việt Nam – TXA. ct.] mà trong lòng sinh nóng lạnh. Người làm dân giáo, cậy thế [thực dân Pháp, cố đạo Pháp – TXA. ct.] lấn át, mà tình ruột thịt đem đặt ra ngoài da. Hai đằng ghét nhau thì hai đằng hẳn thù nhau, thì thế cố nhiên như thế. Nhưng xét kỹ ra thì đầu đuôi cũng tự người đầu mục không khéo xử trí cho nên nỗi ấy. Ôi! Nhà nước dựng nên quan tư mục, cốt để trị dân. Làm sư đạo của dân một địa phương, phải nên giữ lòng minh chính. Hoặc có kẻ bị ghét quá đáng, một khi kiện cáo, gia thêm nạt nộ mà dân giáo uất ức không bày tỏ được. Hoặc sợ hơi nóng bốc lên, gặp có sự lăng ngược, một chiều nín náu, mà ẩn tình của người dân lương không bày được. Làm giám linh mục ấy, trách nhiệm giảng giáo, phải nên giữ lòng công bình. Bình dân hoặc có kẻ trốn tránh dao thuế, mà chạy vào nhà giáo ấy, hoặc có kẻ tranh chiếm ruộng đất mà nhờ thế ấy, đều bao dung cả. Đến nỗi, có kẻ cậy thế mà bức bách người, hoặc có kẻ khinh thường pháp luật mà không đoái, đều không phải là sở ý của Thiên Chúa dạy dân. Kẻ bình dân kia sao không nghĩ cùng ở đất vua, đều là dân vua, giáo dân bình nhật binh đao thuế khóa cùng với lương dân cùng thế. Gián hoặc bức hiếp bình dân vì lẽ gì, sao không tới địa phương quan mà tố cáo, mà dám hại nhau, ngược đãi nhau ngang trái như thế, đối với pháp luật thực khó dung. Giáo dân ấy sao chẳng nghĩ sinh ở đời này, tam giáo cửu lưu, đều có đạo cả, nào ai có cấm đâu mà bèn mượn thế lấn người, đến nỗi chứa bao thù oán, lòng sao nỡ thế. Ôi! Giáo đã không dung được lương, thì lương cũng không cam tâm chịu thua giáo, phải đến tranh nhau, khiến cho trong chốn làng xóm, không lấy ơn lễ ở với nhau mà lại trông nhau như thù nghịch. Giết người, đốt nhà, tội có nhỏ đâu, mà lại đem thêm thử pháp luật như việc gần đây xảy ra ở Bình Định và Quảng Ngãi, rất là quái gở, đáng giận, cần nên tỏ rõ điển hình để răn bảo. Nhưng nghĩ bọn ngươi một khi giận dỗi, dám làm điều trái đạo, rồi hay cải hối được; nếu chẳng uốn nắn cầu toàn, hẳn đến ngọc đá đều cháy; trong lòng ta thực không nỡ thế, đã chuẩn gia ơn cho miễn sự tra xét một lần.
Từ này nên hậu tình hòa hảo, không nên ghen ghét lẫn nhau. Làm người coi địa phương phải ngay sáng để xướng xuất, mà sự oan uổng cần được thân lý; làm giám linh mục phải công bằng để dạy dỗ, mà sự ghen ghét phải bỏ đi; khiến cho cùng thuận, cùng giúp, cùng phù trì nhau, hai bên hoà thuận thì còn gì vui bằng. Nếu không khéo khu xử, đều tự thù hằn nhau, thì đều có tội để xử. Địa phương quan, chiếu theo lệ nịch chức nghiêm trị. Giám linh mục, tư sang nước Pháp nghĩ xử. Đều nên kính cẩn nhé! Thông lục đều tuân”. …”.

(ĐNTL.CB., tập 36, Nxb. KHXH.,
1976, tr. 245 – 246).

52. Bản án của thực dân Pháp về Nguyễn Văn Tường, do De Courcy, De Champeaux cáo thị, ngày 27.7 Ất dậu (05.9.1885):

“Đô thống Đại Pháp là Cô-ra-xy [De Courcy – TXA. ct.] bắt thái phó, Cần Chánh điện đại học sĩ, lãnh Lại bộ thượng thư, kiêm sung Cơ mật viện đại thần, Kì Vĩ quận công, là Nguyễn Văn Tường xuống tàu thủy chạy đi Gia Định.
Cứ theo lời cáo thị của khâm sứ Tham-bô [De Champeaux – TXA. ct.] nói: Văn Tường từng đã chống cự nước ấy [nước Pháp – TXA. ct.] thực đã nhiều năm. Từ khi cùng Tôn Thất Thuyết sung làm phụ chánh, chỉn [: vốn – TXA. ct.] lại đổng suất quan quân nổi dậy công kích quan binh nước ấy [nước Pháp – TXA. ct.]; và Văn Tường do đô thống ấy xin [chính phủ Pháp – TXA. ct.] cho hai tháng [nhằm để – TXA. ct.] lo liệu việc nước cùng Bắc Kỳ cùng được lặng yên vô sự; [kì thực – TXA. ct.] đến ngày 27 tháng ấy hết hạn, mà các tỉnh Tả kỳ về phía nam, có nhiều nơi nổi quân chém giết dân giáo. Đến đây đô thống ấy định án, ƯNG [:NÊN ; PHẢI – TXA. ct.] kết tội lưu.
Hôm ấy chở đem Văn Tường đến cửa biển Thuận An. Buổi chiều Nguyễn Hữu Độ, Phan Đình Bình đi tàu thủy Pháp cũng về đến cửa biển ấy.
(Thuyền Pháp chở Văn Tường đến Gia Định, sau chở gồm cả Phạm Thận Duật, Lê Đính đem về nước ấy [thuộc địa Tahiti – TXA. ct.]; Thận Duật trong khi đi đường bị ốm chết ở trong tầu, buông xác xuống biển) …”.

(ĐNTL.CB., tập 36, Nxb. KHXH.,
1976, tr. 247).

@ @ @ @ @ @

53. Trích phàm lệ của kỉ đệ lục: VIẾT SỬ THEO TIÊU CHÍ NGƯỢC:

“Phàm lệ phụ biên ở kỷ đệ ngũ, trong đó có một điều chép rõ: từ ngày 23 tháng 5 năm Hàm Nghi nguyên niên, sau khi kinh thành có việc, đến ngày 10 tháng 8 trở về trước, xe vua dời đi, trong, ngoài không hệ thuộc được, và tự ngày 10 tháng ấy trở về sau đến cuối tháng 9, Cảnh tông Thuần hoàng đế [vua ngụy Đồng Khánh – TXA. ct.] ta tuy đã nối ngôi, nhưng tuyên bố dụ bảo, sợ chưa biết được khắp, niên hiệu vẫn còn chép là Hàm Nghi; về việc Nam – Bắc có vâng theo dụ của vua Hàm Nghi, mà khởi việc cần vương thì đều hãy chép làm “khởi binh”, để có cớ mà nói. Còn tự mồng 1 tháng 10 năm Đồng Khánh Ất dậu trở về sau, ngôi lớn định đã lâu, dụ bảo chắc đã biết khắp cả, mà còn làm liều, thì ở kỷ đệ lục kỷ sẽ lại chép là nghịch; đã được chuẩn cho lục ra để chép vào.
Nay hai tháng 8 và 9 năm Hàm Nghi nguyên niên [tức là tháng 8 và tháng 9 âm lịch, năm Ất dậu (1885) – TXA. ct.], là còn thuộc vào phận tháng của kỷ ấy, cũng vẫn theo thế chép là khởi binh; còn từ mồng 1 tháng 10, là năm Đồng Khánh Ất dậu trở về sau, thì mới chép là nghịch”.

(ĐNTL.CB., kỉ đệ lục – kỉ bị “bảo hộ”,
tập 37, Nxb. KHXH., 1977, tr. 15 – 16).

54. Quốc thư gửi Chính phủ Pháp của ngụy triều Đồng Khánh, tháng 8 Ất dậu (tháng 9.1885):

“… Quyền thần là Nguyễn Văn Tường, Tôn Thất Thuyết […].Ngày 23 tháng 5 năm nay, kinh thành thất thủ, xe tiên đế dời đi, hai người ấy thực là căn nguyên của tai vạ […]”.

(ĐNTL.CB., kỉ đệ lục – kỉ bị “bảo hộ”,
tập 37, Nxb. KHXH., 1977, tr. 33).

55. Bản án chung thẩm của ngụy triều Đồng Khánh (có chữ kí của De Courcy) về Nguyễn Văn Tường và 3 thành viên khác của nhóm chủ chiến Triều đình Huế, tháng 8 Ất dậu (tháng 9.1885):

“Tôn nhân phủ và đình thần dâng sớ tâu bày tội trạng của Nguyễn Văn Tường và Tôn Thất Thuyết, xin tước hết quan tước và tịch thu gia sản; tham tri Trương Văn Đễ đã quá cố, và chưởng vệ Trần Xuân Soạn, đều là bè đảng làm loạn, cũng tước cả quan chức. Trong bọn ấy, thì Tôn Thất Thuyết, Trần Xuân Soạn, xin do quan địa phương xét bắt bằng được và chém ngay, để tỏ rõ hiến pháp trong nước. Vua nghe theo”.

(ĐNTL.CB., tập 37, Nxb. KHXH.,
1977, tr. 35).

56. Dụ của Đồng Khánh (do khâm sứ thực dân Hector, Nguyễn Hữu Độ hợp soạn, Đồng Khánh chỉ sửa chữa lại), niêm yết khắp các tỉnh từ Quảng Nam trở vào, tháng 02 Bính tuất (tháng 3.1886):

“… Duy trẫm tin là các sĩ phu, thực tình là nhận nhầm, chứ không có lòng làm loạn; Triều đình đã đem đầu mối họa loạn, là tự Nguyễn Văn Tường, Tôn Thất Thuyết gây ra, nói rõ ràng với quan Đại Pháp, đã tin không ngờ, để cho Triều đình ta phải xử trí ngay, cho lương, giáo đều được yên ổn …”.

(ĐNTL.CB., tập 37, Nxb. KHXH.,
1977, tr. 134).

57. Cáo thị của ngụy triều Đồng Khánh (do hai khâm sai Phan Liêm, Phạm Phú Lâm hợp soạn, Đồng Khánh tự sửa định), niêm yết khắp các tỉnh từ Quảng Nam trở vào, tháng 02 Bính tuất (tháng 3.1886):

“… Nay Lê Thuyết [Tôn Thất Thuyết – TXA. ct.], trốn tránh ở rừng gập ghềnh, một thân tuy nhỏ, mà coi đất trời như còn hẹp; Nguyễn Văn Tường thì đã bị đi đày; tức là trời trừ kẻ tật ác; huống chi tai ách 10 đời, [mà Quang Vũ trung hưng – VSH. ct.]; con của Tấn công có 9 người, [mà còn được Tùng Nhĩ – VSH. ct.]; xem ý trời cũng có thể biết. Trẫm cùng bọn ngươi, phải nên hết sức lo toan khôi phục lại, để lại thấy được cảnh tượng thái bình như xưa. Không ngờ bọn ngươi [tức là các sĩ phu, nhân dân – TXA. ct.] theo ý làm liều, hoặc bức đuổi quan tỉnh, hoặc đốt phá phủ, huyện, kháng cự mệnh lệnh Triều đình, cam tâm hết lòng trung với kẻ thù [tức là Hàm Nghi, Nguyễn Văn Tường, Tôn Thất Thuyết, nhưng theo mạch văn, thì chỉ nhắm đến hai phụ chính – TXA. ct.], từ Hải Vân trở vào nam, không chỗ nào là không loạn [khởi nghĩa – TXA. ct.], rất đáng quái lạ; sao không xem châu Hoan, châu Diễn, Quảng Bình, Quảng Trị (*), mượn tiếng là xướng nghĩa, cần vương, đều đem thân bón cho đồng cỏ, mười nhà thì chín nhà hết sạch; còn những kẻ lọt lưới, thì bị mưa độc, khí núi, liền hóa làm giống sâu ở cát, tức như tiến sĩ Nguyễn Xuân Ôn là thủ xướng, phải giải quân trốn xa, thám hoa Nguyễn Đức Đạt phải đến tỉnh đầu thú; đã thấy được đại khái …”.

(ĐNTL.CB., tập 37, Nxb. KHXH.,
1977, tr. 138 – 139).

(*) Xem Jabouille, bài “Một trang viết về lịch sử tỉnh Quảng Trị: tháng 9.1885”, Những người bạn cố đô Huế (BAVH., 1923), bản dịch, tập X, Nxb. Thuận Hoá, 2002, tr. 434, 439… Xin đối chiếu với ĐNTL.CB., tập 37, sđd., tr. 26 – 27, tr. 39 – 40, tr. 54, tr. 60, tr. 124 – 125, tr. 130, tr. 162 – 164, tr. 176 – 177, tr. 178 – 180, tr. 186, tr. 192 – 193.

58. Theo lệnh Pháp, ngụy triều Đồng Khánh và Nguyễn Hữu Độ, cùng với Phan Liêm, Phạm Phú Lâm tuyên truyền bôi nhọ nhằm triệt hạ uy tín Nguyễn Văn Tường, Tôn Thất Thuyết và nhóm chủ chiến, để dập tắt phong trào Cần vương, nên đã bị sĩ phu, nhân dân phản ứng, tháng 11 Bính tuất (tháng 12.1886):

“Phó khâm sai Tả trực kỳ là Phạm Phú Lâm chịu tội.
Phú Lâm đến Đà Nẵng, được 10 ngày dâng tập tâu: “Bọn giặc [quân Cần vương, ngụy triều Đồng Khánh gọi là “giặc”!!! – TXA. ct.] đưa giấy bắt họ thân và bắt được vợ y, làm đủ hình ác; xin tự trói về kinh đợi tội”; lại lục tư cho Viện Cơ mật, nói: “Giặc hiện bắt xã thôn ấy chỉ dẫn phần mộ tổ tiên của y, nếu để chậm, tất đến mắc vạ; bèn không đợi chỉ, lập tức đáp thuyền về kinh, đến Viện Cơ mật, xin đến Bộ Hình đợi tọâi” (*).
Tập tâu ấy, Viện thần hiện đương nghĩ biên phiếu tâu lên hặc tội, nói: “Phú Lâm không đợi chỉ chuẩn cho, dám tự tiện về, đi lại ở thành thị, không lo sợ chút nào, coi pháp lệnh Triều đình như trò trẻ con, sau này, người khác trông thế bắt chước, thì thành sự thể gì. Xin trước hết giải chức, xích lại giao cho Bộ Hình nghiêm nghĩ, để chỉnh đốn phép làm tôi”.
Vua chuẩn y lời tâu. Sau Bộ nghĩ, xin xử tội 100 trượng, cách chức, không được bổ dụng. Vua cho nghĩ xử ấy là nhẹ, bác đi, giao cho Các thần giữ mực công bằng nghị xử lại. Các thần phúc tâu, nói: “Xin chiểu điều luật “lầm lỡ việc quân” xử tội “trảm giam hậu””.
Vua lại nghĩ đến chú ruột y là Phạm Phú Thứ là cựu thần của tiên triều, vốn có trọng vọng, đáng nên ban ân cho con cháu; mới chuẩn cho cách chức, phát giao đi sai phái làm việc ở đạo Hữu trực kỳ”.

(ĐNTL.CB., tập 37, Nxb. KHXH.,
1977, tr. 222).

(*) Biện pháp tàn ác gần như tru di tam tộc, tam đại (giết cả người chết, bằng cách quật mồ, băm xương) này, thực ra khởi đầu là do bọn tay sai đắc lực của Pháp khởi xướng, theo lệnh của Pháp, để đàn áp, dập tắt phong trào khởi nghĩa Cần vương. Đó là bọn Trần Bá Lộc, Nguyễn Thân. Bọn quan tỉnh, thực chất đã là tay sai của thực dân, cũng thực thi biện pháp ấy.
ĐNTL.CB., tập 37, sđd., tr. 197 ghi rõ: “Vua [bù nhìn Đồng Khánh – TXA. ct.] sai bọn khâm sai Phan Liêm tiến đi, (mang theo 300 lính tập và 100 binh giản). Phạm Phú Lâm vì mẹ ốm và tình trạng giặc [quân Cần vương – TXA. ct.] hoành hành, quấy nhiễu (quan viên hạt tỉnh ấy dự bàn đánh dẹp, đốt nhà, bắt thân nhân, và đào phá phần mộ của giặc), xin thôi chức phó khâm sai. Vua y cho”.
Chúng tôi phải chú thích thêm để thấy rằng, quân Cần vương cũng ở trong cái thế phải dùng “độc trị độc”. Trong trường hợp này, không thể trách quân Cần vương được!
Biện pháp dã man thời Trung cổ ấy, xin được hiểu với cái nhìn lịch sử – cụ thể và phải cần phê phán mạnh mẽ theo quan điểm luật pháp văn minh, công bằng, nhân đạo. Nói rõ hơn, hồi đó sự thể nó như thế; sự thể ấy do nhiều yếu tố của thời bấy giờ chi phối, trong đó có thói tục “một người làm quan cả họ được nhờ”, “một người làm giặc cả họ phải tội”. Và nói rõ hơn, sự thể ấy khác hẳn với quan niệm hiện đại của chúng ta: “ai làm ác nấy chịu, ai có công nấy hưởng”.
Ở đây, chúng tôi liên tưởng đến một trí thức tu sĩ Thiên Chúa giáo nào đó, hiện nay, trong mươi năm gần đây, vẫn còn khoái trá một cách bệnh hoạn, hả hê một cách man rợ khi xem phim Sám hối, ca ngợi một người đàn bà thuộc chủng da trắng châu Âu đã trả thù kẻ cầm quyền độc tài bằng cách ba lần quật mồ y! Vẫn là luật Trung cổ “mắt trả mắt, răng trả răng” ư? Thật rùng rợn và đáng phẫn nộ! TXA.

59. Là chánh khâm sai trong chiến dịch bôi nhọ, triệt hạ uy tín Nguyễn Văn Tường, Tôn Thất Thuyết và nhóm chủ chiến, nhằm dập tắt phong trào Cần vương, cuối cùng Phan Liêm cũng như Phạm Phú Lâm, đều thú nhận: sĩ phu, nhân dân sáng suốt, giàu lòng yêu nước, không chịu khuất phục giặc Pháp và ngụy triều Đồng Khánh, tháng 8 Đinh hợi (tháng 9 – tháng 10. 1886):

“Giáng chức viên mới chuẩn cho lãnh tổng đốc Bình Thuận, Khánh Hòa là Phan Liêm … […].
[…] … Lúc đầu Liêm đã được mệnh mới, tức thời dâng sớ nói: “Hai tỉnh Bình Thuận, Khánh Hòa, dân sau khi bị loạn, vỗ yên răn dẹp thật khó; Liêm này mình ốm, tài xoàng, sợ không kham nổi chức ấy, xin chọn bậc danh khanh tài cán, lão luyện đến nhận chức; sẽ xin vào kinh chiêm bái, về quê quán chữa bệnh, để dưỡng tuổi trời”.
[…] … Sau khi đã về tới nơi, Liêm lại nói: “Dân hạt ấy, sau khi bị bọn giặc [quân Cần vương – TXA. ct.] mê hoặc [thức tỉnh, giác ngộ – TXA. ct.], chưa chắc mười phần hết ngờ … […]”.
Vua [bù nhìn Đồng Khánh – TXA. ct.] cho Liêm đã nhiều lần từ chối, không cần ủy gượng, đổi sai Văn Phong thay thế, rồi đem Liêm giải chức, giao cho đình thần trừng trị.
Đình thần xin xử tội đánh 100 trượng, cách chức không được trình bày.
Vua lại nghĩ, Liêm đã từng làm tổng đốc, lại là đời đời làm quan, chuẩn cho giáng làm biên tu, bắt về hưu”.

(ĐNTL.CB., tập 38, Nxb. KHXH.,
1978, tr. 12 – 13).


PHỤ LỤC:

CÁC TƯ LIỆU KHÁC


60. Về năm mất của Nguyễn Văn Tường:

“Nguyễn Văn Tường, người xã An Cư, huyện Đăng Xương, tỉnh Quảng Trị […]; làm quan tới chức Cần Chánh điện đại học sĩ, phụ trách đại thần, tấn phong Kì Vĩ quận công. Sau sự biến năm Ất dậu (1885), chết ở bên Tây” [*].

(Cao Xuân Dục và Quốc sử quán triều Nguyễn, Quốc triều hương khoa lục, bản dịch, Nxb. TP.HCM., 1993, tr. 297).

[*] Đảo TAHITI, thuộc địa của Pháp. Xem thêm: Aldophe Delvaux, bài “Cái chết của Nguyễn Văn Tường, cựu phụ chính An Nam”, Những người bạn cố đô Huế (BAVH.,1923), bản dịch, sđd., tr. 478 – 485. Chúng tôi đã có ý kiến ở bài nghiên cứu “Nguyễn Văn Tường với nhiệm vụ lịch sử sau cuộc Kinh Đô Quật Khởi 05.7.1885” về bài báo xuyên tạc và đầy thù hận này, đồng thời vẫn tiếp nhận để sử dụng các tư liệu gốc (ở đây là văn bản hành chính) của thực dân Pháp trong bài báo ấy. TXA.

61. Giấy khai tử, thủ tục hộ tịch về sự qua đời của Nguyễn Văn Tường:

“CÔNG SỞ PHÁP TẠI CHÂU ĐẠI DƯƠNG
Đảo Tahiti
Thị chính Papeete
Số 60
Cái chết của ngài Nguyễn Văn Tường
30.7.1886

Trích sao từ sổ hộ tịch của xã Papeete (Tahiti)
năm 1886

GIẤY KHAI TỬ

Năm 1886, 30.7, 4 giờ chiều, trước mặt chúng tôi là Adolphe Marouo Poroi, là sĩ quan hộ tịch của xã Papeete, đảo Tahiti. Có đến: 1. Alphonse Bonnet, là quyền giám đốc Sở Nội vụ của các công sở Pháp tại châu lục, 57 tuổi; 2. Etienne Deheaulme, quyền chánh văn phòng của Sở Nội vụ, 26 tuổi; cả 2 người đều sống tại Papeete, đã khai với chúng tôi là sáng nay, lúc 4.h 30, ngài Nguyễn Văn Tường, cựu thủ tướng của Vương quốc An Nam, khoảng 65 tuổi, cư trú tại Papeete, không rõ tên cha mẹ, đã chết; chúng tôi lập giấy khai tử này, và đã ký tên với các nhân chứng; mọi người đều đã đọc.

Chứng nhận trích sao văn bản:

Papeete, 08.12.1922
Ký tên:
A. BONNET,
Thị trưởng
E. DEHEAULME, AM. POROT.

(Aldophe Delvaux, bài “Cái chết của Nguyễn Văn Tường, cựu phụ chính An Nam”, Những người bạn cố đô Huế (BAVH.,1923), bản dịch, sđd., tr. 482 – 483).

62. Trích tin tức về sự qua đời của Nguyễn Văn Tường trên Công báo Tahiti, 05.8.1886, trang 202:

“Nguyễn Văn Tường, cựu thủ tướng của Vương quốc An Nam, đến Tahiti tháng hai vừa qua trên tàu Scorff, chết tại Papeete, ngày thứ sáu, 30.7.1886, lúc 4.h 30 sáng.
Thân thể của ông được liệm trong một quan tài bốn lớp, hiện được giữ tạm trong hầm nhà xác để chở về Huế”.

(Aldophe Delveaux, bài “Cái chết của Nguyễn Văn Tường, cựu phụ chính An Nam”, Những người bạn cố đô Huế (BAVH.,1923), bản dịch, sđd., tr. 481 – 482).

63. Quyết định di chuyển thi hài Nguyễn Văn Tường về Đại Nam:

“QUYẾT ĐỊNH CHO PHÉP
DI CHUYỂN THI HÀI CỦA NGÀI TƯỜNG
(Công báo của thuộc địa, 09.12.1886)

“Toàn quyền các công sở Pháp tại châu Đại Dương,
Chiếu theo văn thư của Bộ ngày 20.10.1886: chỉ định gửi về nước An Nam thi hài của ngài Tường, chết tại Papeete ngày 30.7 vừa qua,
Chiếu theo đề nghị của giám đốc Bộ Nội vụ,
Quyết định:
Cho phép di chuyển thi hài của ngài Tường, chết tại Papeete, ngày 30.7 vừa qua.
Việc di chuyển sẽ được thực hiện trong sự có mặt của ông chủ sự Y tế và ông trưởng ty Cảnh sát hành chánh có phận sự lập biên bản về việc này.

Do quyết định của toàn quyền:
Giám đốc Sở Nội vụ
A. MATHIVET.

Papeete, ngày 9.12.1886
Th. LACASCADE”.

(Aldophe Delvaux, bài “Cái chết của Nguyễn Văn Tường, cựu phụ chính An Nam”, Những người bạn cố đô Huế (BAVH.,1923), bản dịch, sđd., tr. 482).


NHỮNG TRANG NGOÀI SÁCH

TIN GHI NHANH:
CUỘC HỘI THẢO KHOA HỌC
VỀ NHÂN VẬT LỊCH SỬ
NGUYỄN VĂN TƯỜNG (1824 – 1886)

Hội thảo khoa học về nhân vật lịch sử Nguyễn Văn Tường (1824 – 1886) được tổ chức vào ngày 02.7.2002 (nhằm ngày 22.5 âm lịch, Nhâm ngọ), tại hội trường Nhà khách số 5 Lê Lợi, thành phố Huế, để kỉ niệm 117 năm Cuộc Kinh đô quật khởi và thất thủ (1885 – 2002), đồng thời đánh dấu một bước nghiên cứu, nhận định nhân vật lịch sử chủ chiến, yêu nước từng đứng đầu triều đình ấy.
Chủ toạ cuộc hội thảo: Ông Dương Trung Quốc, tổng thư kí Hội Khoa học lịch sử Việt Nam, tổng biên tập Tạp chí Xưa & Nay, TS. Đỗ Bang, chủ tịch Hội Khoa học lịch sử Thừa Thiên – Huế, kiêm quyền giám đốc Trung tâm Khoa học xã hội và nhân văn thuộc Viện Đại học Huế, ông Lê Văn Thuyên, tổng biên tập Tạp chí Huế Xưa & Nay.
Ông phó chủ tịch UBND. tỉnh Thừa Thiên – Huế đã đến đọc diễn văn khai mạc, hiện diện suốt cuộc hội thảo, và đã đọc diễn văn bế mạc. Ngoài ra, còn có các đại biểu tỉnh Quảng Trị: Ông giám đốc Trung tâm Thông tin – Công nghệ Quảng Trị, các ông chủ tịch, phó chủ tịch UBND. xã Triệu Phước, quê hương của nhân vật lịch sử Nguyễn Văn Tường… ; và một số hậu duệ của vị phụ chính đại thần yêu nước này.
Tham dự cuộc hội thảo, ngoài các nhà nghiên cứu sử học, giảng viên đại học về khoa lịch sử tên tuổi ở Huế, như các ông Nguyễn Đắc Xuân, Trần Đại Vinh…, với sự có mặt của các phóng viên đài, báo, còn có TS. Đào Hùng (phó tổng biên tập Tạp chí Xưa & Nay) từ Hà Nội vào, các nhà nghiên cứu Trần Viết Ngạc, Nguyễn Nhã, và Trần Xuân An, từ Tp. HCM. ra.
Nội dung chính của hội thảo gồm 15 bài nghiên cứu – tham luận, báo cáo khoa học, kể cả bản báo cáo đề dẫn của TS. Đỗ Bang. Tất cả đều tập trung phân tích, nhận định về nhân vật lịch sử chủ chiến và yêu nước Nguyễn Văn Tường (1824 – 1886). 13 tác giả của 15 bài nghiên cứu – tham luận, báo cáo khoa học đều có mặt: TS. Đỗ Bang, Trần Viết Ngạc, Trần Xuân An, Trần Huy Thanh, Phan Thuận An, Phạm Hồng Việt, Huỳnh Kim Thành, TS. Nguyễn Thị Đảm, Trần Thiều, Nguyễn Quang Trung Tiến, Hãn Nguyên Nguyễn Nhã, Hồ Vĩnh, Lê Tiến Công. Cùng với Lời mở đầu của Ban Tổ chức hội thảo (do ông Lê Văn Thuyên đọc), 15 bài nghiên cứu – tham luận, báo cáo khoa học nói trên đã được in thành tập sách, trước mắt là trực tiếp cung cấp văn bản – tài liệu cho cuộc hội thảo.
Sau mỗi bản tham luận, báo cáo khoa học được trích đọc hoặc được phát biểu những điểm chính yếu, cuộc hội thảo liền diễn ra một không khí tranh luận học thuật sôi nổi trong tinh thần dân chủ.
Đặc biệt, trong buổi chiều, Ban Tổ chức đã dành một khoảng thời gian ngắn để bà Nguyễn Thị Oanh, cô Trần Nguyễn Từ Vân trình bày trên màn ảnh phim đèn chiếu một số văn bản gốc chụp lại được tại các Kho Lưu trữ Bộ Hải ngoại, Bộ Thuộc địa Pháp. Trong số các tư liệu gốc của phía thực dân Pháp, có những bức thư, bản báo cáo mật và tối mật, vốn đã được viết tay với thủ bút của các tướng thực dân Courbet, Millot, De Courcy, Lacascade…, một số trang báo nguyên bản như Saigonnaire, Journal officiel des établissements français de L’Océanie, Avenir Tonkin… Màn phim đèn chiếu được giăng cạnh tấm bảng đính những bức ảnh về căn nhà lưu đày, ngôi mộ táng tạm thi hài Nguyễn Văn Tường, hiện vẫn còn tồn tại ở Papeete (quần đảo Tahiti) do cô Trần Nguyễn Từ Vân chụp.
Ngoài ra, các tác giả còn tặng biếu sách báo, trao đổi tư liệu cho nhau trong những phút giải lao. Trong đó, có tập bản thảo, dạng sách, đã xếp chữ vi tính, gồm một số bài nghiên cứu, phê bình sử học của Trần Xuân An (và phần phụ lục tư liệu) (*), với luận đề phân tích, phê phán một vài trang đảo ngược sự thật lịch sử về Nguyễn Văn Tường vì mục đích tuyên truyền trong Việt Nam vong quốc sử – cuốn sách mà từ lâu giới nghiên cứu Trung Quốc đã khẳng định là của Lương Khải Siêu (chứ không phải của Phan Bội Châu!) và họ đã đưa vào Ẩm Băng Thất hợp tập, tuyển tập (**) của nhà văn bảo hoàng, Đại Hán chủ nghĩa hạng nặng này.
Cuối buổi chiều cùng ngày, ông tổng thư kí Hội Khoa học lịch sử Việt Nam, tổng biên tập Tạp chí Xưa & Nay Dương Trung Quốc đã tổng kết cuộc hội thảo, và nhận định chung nhất được khẳng định: Nguyễn Văn Tường (1824 – 1886) là một nhân vật lịch sử lớn, có nhiều đóng góp trong việc bảo vệ độc lập, chủ quyền đất nước ta ở giai đoạn đầu chống Pháp (1858 – 1885). Ông Dương Trung Quốc đã liệt kê các mức độ đánh giá khác nhau của các nhà nghiên cứu nhưng tựu trung vẫn cùng kết luận chung nhất trong cuộc hội thảo như đã khẳng định, đồng thời ông vẫn ghi nhận rõ sự tồn tại hai loại ý kiến khác nhau: Sau cuộc Kinh Đô Quật Khởi và thất thủ 05.7.1885, Nguyễn Văn Tường thực hiện kế hoạch “kẻ ở, người đi” (đánh và đàm) hay đã sai lầm trong việc vừa thoả hiệp với Pháp vừa đấu tranh với chúng để giành lại ít nhiều chủ quyền cho dân tộc và vương triều Nguyễn. Theo ông, cuộc hội thảo khoa học đã đánh dấu một bước tiến trong tiến trình nghiên cứu về nhân vật lịch sử Nguyễn Văn Tường, trên cơ sở các tư liệu được tìm kiếm, thẩm định ngày một đầy đủ hơn. Ông Dương Trung Quốc còn thông báo, ông sẽ cho đăng bài tổng kết hội thảo của ông trên tạp chí Xưa & Nay để rộng đường công luận.
Cuối cùng, ông Lê Văn Thuyên cùng TS. Đỗ Bang, thay mặt Ban Tổ chức, cũng thông báo: Các bài nghiên cứu – tham luận, báo cáo khoa học và các ý kiến thảo luận, bản tổng kết hội thảo sẽ được tập hợp để xuất bản thành kỉ yếu.
Khi Ban Tổ chức đã tuyên bố bế mạc, trong hội trường vẫn còn những tiếng nói yêu cầu vận động, thúc đẩy việc công bố trọn vẹn các nguồn tư liệu: Châu bản triều Nguyễn, châu bản triều Thanh, tư liệu gốc của thực dân Pháp, của các nước, các tổ chức có liên quan, như Tây Ban Nha, Anh, Đức, Xiêm, Lào…, Hội Truyền giáo hải ngoại Paris …; tất cả các tư liệu gốc ấy phải được giám định khoa học thực nghiệm.
Ngày 03.7.2002, Hội Khoa học lịch sử Thừa Thiên – Huế đã cử một số đại biểu ra viếng từ đường họ Nguyễn Văn, mộ phần và đền thờ Kì Vĩ phụ chính đại thần Nguyễn Văn Tường tại làng An Cư, xã Triệu Phước, tỉnh Quảng Trị. Tại đền thờ, các đại biểu đã trang trọng treo lên lá cờ lưu niệm của Hội.

PHAN HUYÊN ĐÌNH
(11.7.2002).

8. CƯỚC CHÚ bài TIN GHI NHANH: CUỘC HỘI THẢO KHOA HỌC VỀ NHÂN VẬT LỊCH SỬ NGUYỄN VĂN TƯỜNG (1824 – 1886)

(*) Đó là cuốn Nguyễn Văn Tường (1824 – 1886), “những người trung nghĩa từ xưa, tưởng không hơn được” này. TXA.
(**) Xem Lời giới thiệu của Chương Thâu: Những tác phẩm của Phan Bội Châu (tập 1), gồm Việt Nam vong quốc sử, Việt Nam quốc sử khảo, Văn Tạo chủ biên và nhiều người dịch, hiệu đính, Nxb. KHXH., 1982, tr. 48: “Ký Việt Nam vong nhân chi ngôn” (Chép lời người Việt Nam mất nước) …; “Những lần xuất bản sau đều in trong các bộ Hợp tập, Chuyên tập, Toàn tập Ẩm Băng Thất” của Lương Khải Siêu.





HỘI THẢO KHOA HỌC

VỀ NHÂN VẬT LỊCH SỬ
NGUYỄN VĂN TƯỜNG
(1824 – 1886)

Cuộc hội thảo về nhân vật lịch sử Nguyễn Văn Tường (1824 – 1886) đã được Trung tâm Khoa học xã hội và nhân văn Huế, thuộc Đại học Huế và Hội Khoa học lịch sử tỉnh Thừa Thiên – Huế, tổ chức tại thành phố Huế ngày 02.7.2002, đúng vào ngày kỷ niệm cuộc tấn công quân Pháp của quân triều đình Huế, đưa đến sự kiện thất thủ kinh đô ([23.5 Ất dậu – ct.], tính theo âm lịch), 05.7.1885. Đây chưa phải là lần đầu tiên, mà từ năm 1996, Trường Đại học Sư phạm thành phố Hồ Chí Minh đã có một cuộc hội thảo về nhân vật này, tuy đã đính chính được nhiều nhận định cũ, nhưng vẫn còn những vấn đề chưa được giải đáp, để lại những tồn nghi.
Nguyễn Văn Tường là một nhân vật có vai trò quan trọng trong lịch sử dân tộc cuối thế kỷ XIX, đã từng được cử làm phụ chính đại thần cùng với Tôn Thất Thuyết, Trần Tiễn Thành, sau khi vua Tự Đức qua đời, trong giai đoạn đầy sóng gió của triều đình nhà Nguyễn trước sự xâm lược của thực dân Pháp. Ông là người có ảnh hưởng đến chủ trương tự vệ bằng quân sự của một nhóm đình thần trong triều. Nhưng sau sự kiện ngày 05.7.1885 với việc xuất bôn của vua Hàm Nghi và lời kêu gọi Cần vương, nhiều vấn đề liên quan đến Nguyễn Văn Tường đã bị kẻ thù của ông xuyên tạc, mà trước hết là những tài liệu của thực dân Pháp và triều đình Đồng Khánh, gây nhiều ngộ nhận đối với nhân vật yêu nước này, khiến lâu nay trong nhiều sách lịch sử, Nguyễn Văn Tường vẫn bị coi như là một người đầu hàng, phản bội.
Với 16 tham luận được gửi tới, hội thảo đã được tiếp cận với nhiều tài liệu mới, trong đó có những tài liệu được sưu tầm từ các kho lưu trữ ở Pháp. Hội thảo còn dành nhiều thời gian để thảo luận, chất vấn, tìm hiểu thêm về những tài liệu mới, xác định những tài liệu được coi là ngụy tạo, về những đánh giá thiên kiến, về những điều chưa rõ ràng trong hành xử của Nguyễn Văn Tường, nhất là giai đoạn sau khi xảy ra sự kiện thất thủ kinh đô. Tuy còn một số vấn đề cần tiếp tục trao đổi, nhưng hội thảo cũng đã nhất trí nhận định rằng, Nguyễn Văn Tường là một vị đại thần yêu nước thuộc phe chủ chiến, nhưng đường lối đấu tranh của ông có khác với các nhân vật khác, do đó nẩy sinh ra mâu thuẫn trong nội bộ phe chủ chiến, đồng thời cũng thể hiện sự bế tắc của ông trong khi xử lý các tình huống lúc bấy giờ. Thực dân Pháp và triều đình Đồng Khánh luôn coi ông là kẻ thù, chúng chỉ lợi dụng ông chứ không hề có sự hợp tác. Đó là nguyên nhân đưa đến việc ông bị lưu đày và cái chết đầy bi kịch của Nguyễn Văn Tường (**). Xưa & Nay sẽ có tường thuật chi tiết về cuộc hội thảo này trong số báo sau (***).
PV.
Tạp chí Xưa & Nay,
số 119 (167), tháng VII, 2002 (năm thứ chín), tr. 42.

CƯỚC CHÚ bài HỘI THẢO KHOA HỌC VỀ NHÂN VẬT LỊCH SỬ NGUYỄN VĂN TƯỜNG (1824 – 1886):

(*) Đầu đề do chúng tôi đặt (TXA.).

(**) Bản thân chúng tôi có tham dự suốt cuộc hội thảo này, nhưng không thấy có kết luận như phóng viên (PV.) đã đưa tin: “ … nhưng đường lối đấu tranh của ông có khác với các nhân vật khác, do đó nẩy sinh ra mâu thuẫn trong nội bộ phe chủ chiến, đồng thời cũng thể hiện sự bế tắc của ông trong khi xử lý các tình huống lúc bấy giờ. Thực dân Pháp và triều đình Đồng Khánh luôn coi ông là kẻ thù, chúng chỉ lợi dụng ông chứ không hề có sự hợp tác. Đó là nguyên nhân đưa đến việc ông bị lưu đày và cái chết đầy bi kịch của Nguyễn Văn Tường”. Nói rõ hơn, cuộc hội thảo chưa có một kết luận chung cụ thể với ý tưởng sai lệch, cách diễn đạt phiến diện như vậy. Ông Dương Trung Quốc chỉ liệt kê các ý kiến nhận định, khái quát sơ bộ (xin xem bản tin phía trước), và thông báo trước là sẽ có một bài tổng kết hoặc tổng luận đầy đủ trên báo Xưa & Nay, nhưng đến nay vẫn chưa được thấy! Tưởng cũng nên nhắc lại, nhận định của chúng tôi về Tôn Thất Thuyết và Nguyễn Văn Tường là, một người làm công việc quân binh, luôn luôn phải cứng rắn, một người làm nhiệm vụ ngoại giao, phải cứng rắn trong vẻ mềm dẻo; cả hai vị vẫn nhất dạng trong kế hoạch đánh (“người đi”) kết hợp với đàm (“kẻ ở”). Vả lại, đúng với sự thật lịch sử, thực dân Pháp cùng triều đình Đồng Khánh luôn coi Nguyễn Văn Tường là kẻ thù; trong hai tháng sau cuộc Kinh Đô Quật Khởi, bị thất thủ, chúng cũng không thể lợi dụng được ông.

(***) Rất tiếc, cho đến nay, 31.8.2003, không những chưa đọc được bài tổng kết hay tổng luận nói trên, chúng tôi cũng chưa thấy bài tường thuật chi tiết của Xưa & Nay về cuộc hội thảo tại Huế vào ngày 02.7.2002 trên tạp chí.

TXA.

THÔNG TIN
VỀ CÁC HỘI NGHỊ,
HỘI THẢO KHOA HỌC (*)



A.
HỘI NGHỊ KHOA HỌC:
NHÓM CHỦ CHIẾN TRIỀU ĐÌNH HUẾ
& NGUYỄN VĂN TƯỜNG:

1.Kỉ yếu: 28 bài khảo luận sử học
(29 tác giả), trong đó có nhiều bài viết bàn về
Nguyễn Văn Tường:
Gs. Nguyễn Văn Kiệm, Nnc. Trần Viết Ngạc, Nnc. Trần Thị Thanh Thanh, Nnc. Trần Đại Vinh, Nnc. Vũ Đức Sao Biển, Nnc. Trần Thị Kim Hoa, Nnc. Tôn Thất Hào, Gs. Đoàn Quang Hưng, Nnc. Nguyễn Hữu Thông & Nnc. Nguyễn Quang Trung Tiến, Ts. Võ Xuân Đàn, Gs. Vũ Ngọc Khánh, Ts. Nguyễn Thị Đảm, Nnc. Đặng Thị Tịnh…

2.Kì Vĩ quận công Nguyễn Văn Tường thi tập
do Nnc. Trần Viết Ngạc sưu tầm & giới thiệu,
Nnc. Trần Đại Vinh – Nnc. Vũ Đức Sao Biển
phiên âm và dịch

(Trường Đại học Sư phạm TP. Hồ Chí Minh
chủ trì hội nghị và ấn hành, 20. 6. 1996).

B.
HỘI THẢO KHOA HỌC:
NHÂN VẬT LỊCH SỬ NGUYỄN VĂN TƯỜNG
(1824 – 1886):

Tập các báo cáo khoa học
(15 bài khảo luận của 13 tác giả),
với chuyên đề về Nguyễn Văn Tường:

PGs. Ts. Đỗ Bang, Nnc. Trần Viết Ngạc, Trần Xuân An, Nnc. Trần Huy Thanh, Nnc. Phan Thuận An, Nnc. Phạm Hồng Việt, Nnc. Huỳnh Kim Thành, Ts. Nguyễn Thị Đảm, Nnc. Trần Thiều, Nnc. Nguyễn Quang Trung Tiến, Nnc. Hãn Nguyên Nguyễn Nhã, Nnc. Hồ Vĩnh, Nnc. Lê Tiến Công.

(Trung tâm Khoa học xã hội & nhân văn Huế – Viện Đại học Huế, Hội Khoa học lịch sử Thừa Thiên – Huế
chủ trì hội thảo và ấn hành, 02. 7. 2002).

C.
HỘI NGHỊ:
THÔNG BÁO NHỮNG NGHIÊN CỨU & SỬ LIỆU
VỀ NHÂN VẬT LỊCH SỬ NGUYỄN VĂN TƯỜNG
TRONG PHONG TRÀO CẦN VƯƠNG.

(Hội Khoa học lịch sử Việt Nam tổ chức tại Hà Nội, 01. 11. 2003, và thông báo trên tạp chí Xưa & Nay, sô 151 (199), tháng 11. 2003, đồng thời trên tạp chí Nghiên cứu lịch sử, số 6 (331) tháng 11 & tháng 12. 2003.).

Theo thông báo trên, những công trình nghiên cứu, sưu tầm, dịch thuật tư liệu vẫn được tiếp tục, mặc dù Hội Khoa học lịch sử Việt Nam đã khẳng định lại sự khẳng định từ cuối thế kỉ XIX đến nay của giới sử học trong và ngoài nước: Nguyễn Văn Tường (1824 – 1886) là nhà yêu nước, chủ chiến
[trong bối cảnh suy trầm chung của Việt Nam
và các châu lục Á – Phi – Mỹ la-tinh
trước nạn thực dân Âu – Mỹ (– nbs.)].
Đồng thời, Hội Khoa học lịch sử Việt Nam cũng đã thẩm định và đã đi đến khẳng quyết về tính chân xác của các sử liệu được công bố trong hội thảo ngày 02. 07. 2002 tại Huế (**).



(*) Sau phần này, người biên soạn xin được phép trang trọng chép lại hai bài thông tin khoa học và nhận định khái quát từ cuộc hội nghị do Hội Khoa học lịch sử Việt Nam tổ chức tại Hà Nội, ngày 01. 11. 2003. Chúng tôi cũng mạo muội chú thích thêm cuối trang và cuối bài để làm rõ hơn, theo tinh thần dân chủ trong học thuật.
Trân trọng kính thưa trước. TXA.

(**) Các tư liệu ấy cũng đã được công bố trên báo chí một cách công khai và minh bạch. Xin xem: Trần Viết Ngạc, “Những tư liệu mới về Nguyễn Văn Tường” [giới thiệu, phân tích, bổ sung tư liệu sưu tầm, dịch thuật của bà Nguyễn Thị Ngọc Oanh, hậu duệ của cụ Nguyễn Văn Tường, và con gái bà là Trần Nguyễn Từ Vân], bns. Xưa & Nay, số 126 (174) tháng 10. 2002, tr. 18 – 20. Chúng tôi đã trần thuật lại bài báo trên (đồng thời mạn phép trích nguyên văn một số đoạn tư liệu) ở chú thích (9), bài “Nguyễn Văn Tường với nhiệm vụ lịch sử sau cuộc Kinh đô quật khởi, 05. 07. 1885”.





Tạp chí NGHIÊN CỨU LỊCH SỬ
(Trung tâm Khoa học xã hội
& nhân văn quốc gia – Viện Sử học Việt Nam)
Số 6 – 2003, tr. 90
THÔNG TIN SỬ HỌC
HỘI NGHỊ: THÔNG BÁO NGHIÊN CỨU VÀ SỬ LIỆU VỀ NHÂN VẬT LỊCH SỬ NGUYỄN VĂN TƯỜNG TRONG PHONG TRÀO CẦN VƯƠNG

Ngày 01. 11. 2003, Hội Khoa học lịch sử Việt Nam tổ chức Hội nghị: “Thông báo nghiên cứu và sử liệu về nhân vật lịch sử Nguyễn Văn Tường trong phong trào Cần vương”. Tham dự có các nhà nghiên cứu của Viện Sử học, các thành viên của Hội và đại diện hậu duệ đời thứ năm của Phạm Thận Duật, Tôn Thất Thuyết.
Nguyễn Văn Tường, Tôn Thất Thuyết và Hoàng Kế Viêm là ba nhân vật quan trọng nhất của triều Nguyễn thời Tự Đức, phục vụ triều đình cho đến năm 1885 nhưng không được Quốc sử quán triều Nguyễn biên chép trong bộ Đại Nam chính biên liệt truyện. Điều này đã làm cho việc nghiên cứu ba nhân vật này trở nên khó khăn. Để làm sáng tỏ cuộc đời và sự nghiệp của Nguyễn Văn Tường, đã có hai hội thảo khoa học về Nguyễn Văn Tường. Hội thảo thứ nhất do Trường Đại học Sư phạm thành phố Hồ Chí Minh tổ chức ngày 20. 6. 1996 với chủ đề: “Nhóm chủ chiến trong triều đình Huế và Nguyễn Văn Tường”, kết quả là, bước đầu sưu tầm được nhiều tư liệu, nghiên cứu và đánh giá về Nguyễn Văn Tường và kết luận: Nguyễn Văn Tường là người thực tâm yêu nước. Giáo sư Trần Văn Giàu cũng đã từ bỏ ý kiến đánh giá trước đây của mình và thừa nhận Nguyễn Văn Tường là đại quan yêu nước dưới triều Nguyễn. Tuy nhiên vấn đề vẫn còn chưa lí giải được là việc Nguyễn Văn Tường rời bỏ Tôn Thất Thuyết để tạm thời (*)cộng tác với Pháp sau sự kiện 05. 7. 1885. Hội thảo thứ hai do Trung tâm Khoa học xã hội và nhân văn Huế – Viện Đại học Huế và Hội Khoa học lịch sử tỉnh Thừa Thiên – Huế tổ chức ngày 02. 7. 2002 tại Huế. Thành công lớn nhất của Hội thảo là đã hình thành một nhóm sưu tầm tư liệu ở trong và ngoài nước về Nguyễn Văn Tường một cách toàn diện. Cũng trên cơ sở có tư liệu mới nên việc đánh giá về Nguyễn Văn Tường đầy đủ, khách quan và chính xác hơn. Hội thảo lần này tiếp tục giới thiệu những tư liệu được sưu tầm tại Pháp và Tahiti do hậu duệ đời thứ năm và sáu (**) của cụ Nguyễn Văn Tường là Nguyễn Thị Ngọc Oanh và con gái là Trần Nguyễn Từ Vân thực hiện. Trong đó có nhiều tư liệu khai thác tại các trung tâm lưu trữ hồ sơ của Bộ Ngoại giao (Paris), tại Tahiti, và Bộ Hải quân.
P. C.
(Phó Tổng biên tập Nguyễn Thị Phương Chi)



(*) Nbs. xin mạn phép nhấn mạnh (in đậm và in nghiêng).

(**) Nếu tính các thế hệ từ đời con trở xuống, chính xác là: hậu duệ thế hệ thứ tư và thứ năm.


HỘI KHOA HỌC LỊCH SỬ VIỆT NAM
Tạp chí Xưa & Nay
Số 151 (199) – tháng 11. 2003, tr. 7 - 9

NGUYỄN VĂN TƯỜNG,
NHỮNG CHUYỂN BIẾN TRONG SỰ ĐÁNH GIÁ

Ngày 01. 11. 2003, Hội Khoa học lịch sử Việt Nam đã tổ chức cuộc sinh hoạt khoa học nhằm thông báo và trao đổi xung quanh những đánh giá và tư liệu mới về nhân vật lịch sử Nguyễn Văn Tường. Cuộc họp này là sự kế tục các cuộc hội thảo về “Nhóm chủ chiến trong triều đình Huế và Nguyễn Văn Tường” do Trường Đại học Sư phạm Tp. Hồ Chí Minh tổ chức ngày 20. 06. 1996, và cuộc hội thảo về “Nhân vật lịch sử Nguyễn Văn Tường” do Trung tâm Khoa học xã hội & nhân văn Huế và Hội Khoa học lịch sử Thừa Thiên – Huế tổ chức ngày 02. 7. 2002. Đây là vấn đề mà giới sử học đang quan tâm, cũng như các cuộc toạ đàm đánh giá lại các nhân vật Lê Văn Duyệt, Phan Thanh Giản do Hội Khoa học lịch sử Việt Nam tổ chức gần đây. Chúng tôi xin lược thuật lại nội dung các cuộc trao đổi trên để giúp bạn đọc hiểu rõ thêm bi kịch đối với một nhân vật lịch sử trong giai đoạn biến động của đất nước.

Nguyễn Văn Tường là một trong những đại thần dưới triều Tự Đức. Sau khi Tự Đức băng hà, ông cùng Tôn Thất Thuyết làm phụ chính đại thần, lãnh đạo phe chủ chiến phế lập các vua Nguyễn để thực hiện mục tiêu chống Pháp. Nguyễn Văn Tường là người có nhiều mưu lược chống Pháp, nhất là trên mặt trận ngoại giao. Nhưng đến sự kiện tấn công quân Pháp đêm 04. 7. 1885 do chủ mưu của Tôn Thất Thuyết trong một tình thế bức bách dù biết rằng sẽ thất bại, Tôn Thất Thuyết đã không bàn với Nguyễn Văn Tường và không xin ý kiến vua Hàm Nghi (*).
Trước tình thế đó, Nguyễn Văn Tường tìm cách đưa vua Hàm Nghi và tam cung lánh nạn để chờ điều đình với Pháp. Nhưng Tôn Thất Thuyết đã kịp thời đưa vua và tam cung ra Quảng Trị. Theo Đại Nam thực lục và theo tài liệu dân gian Hạnh Thục ca (*a) thì Nguyễn Văn Tường đã vâng lệnh thái hậu Từ Dũ ở lại để điều đình với Pháp, đó là sứ mệnh cao cả và nguy hiểm chứ ông không phải là người ở lại để đầu thú (*b). Nhưng sau sự kiện thất thủ kinh đô, Nguyễn Văn Tường rơi vào thế tiến thoái lưỡng nan và nằm trong lưới bẫy thực dân. Ông đã trở thành mục tiêu công kích thậm tệ của nhiều thế lực đang thắng thế ở kinh đô, không những bị triều đình Đồng Khánh lên án mà còn bị dư luận xuyên tạc gây nên nhiều ngộ nhận đối với các thế hệ sau.
Theo các tài liệu mới sưu tầm được, thì trong hai tháng ở Huế, Nguyễn Văn Tường là thân phận tùø binh của Pháp. Tướng De Courcy, tổng chỉ huy quân Pháp ở Bắc Kỳ, đã lợi dụng danh nghĩa phụ chính của Nguyễn Văn Tường để thực hiện ý đồ chinh phục, như viết thư kêu gọi vua Hàm Nghi và tam cung trở lại Huế; có tài liệu cho biết Nguyễn Văn Tường vẫn tiếp tục liên lạc với quân Cần vương và bị De Courcy phát giác [nbs. iđ. & in.]. Điều đó cho thấy Nguyễn Văn Tường không làm tay sai cho Pháp mà trước sau vẫn bị chúng cho là đối nghịch. Kết cục là triều đình Đồng Khánh đã kết án ông và đày ra Côn Đảo, sau đó thực dân Pháp thấy không yên tâm nên đã đày ông biệt xứ sang đảo Tahiti. Ông đã qua đời tại đó năm 1886 [nbs. iđ. & in.]. Tuy nhiên kết cục bi thảm đó không được giới sử học trước đây mảy may bận tâm. Nhiều tài liệu lịch sử vẫn viết rằng Nguyễn Văn Tường là kẻ đầu hàng chống lại phe chủ chiến.
Nếu như Quốc sử quán triều Nguyễn không đưa Nguyễn Văn Tường và nhiều nhà yêu nước khác vào bộ Liệt truyện, thì giới sử học ngày nay có trách nhiệm làm sáng tỏ cuộc đời và sự nghiệp của Nguyễn Văn Tường, để đặt ông vào đúng vị trí một nhân vật có tầm vóc trong lịch sử dân tộc cuối thế kỉ XIX [nbs. iđ. & in.].
Sai lầm của Nguyễn Văn Tường là tin vào việc thương thuyết để tìm một lối thoát cho đất nước, khi mà cuộc đấu tranh vũ trang đã thất bại; chủ quyền không còn, thì ông trở thành mục tiêu để kẻ thù lợi dụng và loại trừ. Thực dân Pháp đã lợi dụng ông để ổn định tình thế sau biến động ở kinh đô, khi vua và triều thần không còn. Chính vì sự lợi dụng này mà Nguyễn Văn Tường bị coi như kẻ tiếp tay cho chính sách cai trị của Pháp sau biến cố ở kinh đô. Đó cũng là một lầm lẫn đáng tiếc của ông (*c).
Nhưng không vì thế mà ta có thể nghi ngờ lòng yêu nước của ông. Thực dân Pháp và triều đình Đồng Khánh luôn xem ông là kẻ thù, xếp ông vào cùng danh sách những người yêu nước chống Pháp hàng đầu thời đó [nbs. iđ. & in.] như Tôn Thất Thuyết, Trần Xuân Soạn, Tôn Thất Đính, Phạm Thận Duật (*d)… Qua cuộc hội thảo năm 1996 tại Tp. Hồ Chí Minh, Gs. Trần Văn Giàu cũng đã từ bỏ ý kiến trước đây của mình và thừa nhận Nguyễn Văn Tường là một trong những đại quan yêu nước dưới triều Nguyễn.
Việc công bố mới đây một số tài liệu lưu trữ của Pháp (hồ sơ CAOM. …, CAOM. … (*e) (1)) và những cuộc khảo sát ở nhà tù Tahiti, do hậu duệ Nguyễn Văn Tường thực hiện ở nước ngoài, đã giúp cho các nhà sử học có thêm cơ sở để đánh giá lại nhiều điểm oan khuất trong cuộc đời của Nguyễn Văn Tường, nhất là hai tháng cuối cùng ở Huế.
Với sự chia sẻ đối với thế hệ Nguyễn Văn Tường – một thế hệ những người có tâm với đất nước nhưng không tìm ra con đường cứu nước – chúng ta càng hiểu thêm những bi kịch mà thế hệ đó phải trải qua. Trong thời gian tới, nhận thức về Nguyễn Văn Tường và thời đại của ông còn được tiếp tục nghiên cứu thêm nữa, và sự phong phú, chính xác của những nguồn tư liệu sẽ còn được khai thác, củng cố thêm niềm tin của chúng ta đối với những kết luận đã được nêu lên qua các cuộc hội thảo gần đây.
Một trong những tư liệu được công bố gần đây có nhắc đến lời ai điếu khi đón nhận di hài Nguyễn Văn Tường về với Tổ quốc. Bài thơ (*g) viếng ấy có thể là của cụ Đào Tấn, gửi gắm một trách nhiệm rất lớn cho chúng ta, những người viết lịch sử:
Quốc kế thị phi lân sử định
Thiên phương sinh tử nhạn thư điêu ((*)).
Cái chết của những thế hệ đi trước để lại cho chúng ta một di sản, nhưng đồng thời cũng trao trách nhiệm để chúng ta kế thừa. Với cách đặt vấn đề và suy như vậy, những cuộc hội thảo vừa qua đã đi được một bước quan trọng, nhưng chưa phải là bước đi cuối cùng, vì sẽ còn nhiều cuộc trao đổi nữa đề cập đến thời đại bi kịch của Nguyễn Văn Tường mà chúng ta có thể làm sáng tỏ thêm nhiều nhân vật lịch sử khác.

Tạp chí Xưa & Nay
(Cơ quan của Hội KHLS. VN.)



(*) Xin vui lòng xem: Gs. Bửu Kế, bài “Toà Khâm sứ Pháp”, trong CHUYỆN TRIỀU NGUYỄN, Nxb. Thuận Hóa, 1990, tr. 78 – 101; Trần Xuân An, “Nguyễn Văn Tường với nhiệm vụ lịch sử sau cuộc kinh đô quật khởi, 05. 7. 1885”, Hội thảo khoa học: Nhân vật lịch sử Nguyễn Văn Tường (1824 – 1886) – Các báo cáo khoa học, Trung tâm Khoa học xã hội & nhân văn Huế – Viện Đại học Huế, Hội Khoa học lịch sử Thừa Thiên – Huế ấn hành, Huế – 02. 7. 2002, tr. 59 – 83. Tháng 8. 2003 (HB.3), tự nhuận sắc; in lại trong sách khác. Một đoạn ĐNTL. CB., cần lưu ý: “Từ điều ước tái định đã được phân minh, KHIẾN NƯỚC PHÁP TRƯỚC TỰ BẠI HOÀ GÂY BIẾN, thì phàm ai ở đất vua cũng đều thù ghét [giặc Pháp – ct.], ai bảo là không nên. Không gì bằng CUỘC NGHĨA CỬ ĐÊM 22 THÁNG 5 NĂM NAY [04 – 05.7.1885 – ct.]…” (Đại Nam thực lục chính biên [ĐNTL. CB.], tập 36, sđd., tr. 244), và nhất là bản án chung thẩm: “đều là bè đảng làm loạn” (ĐNTL.CB., tập 37, sđd., tr. 35; ở chú thích (*d) của phần này).

(*a) Hạnh Thục ca là tác phẩm của Lễ tần Nguyễn Nhược Thị Bích (vợ của Tự Đức; sau khi Tự Đức băng hà, đảm đương chức năng thư kí riêng cho bà Từ Dũ để viết các bản sắc dụ…). Tác phẩm này đã ít nhiều được lưu truyền trong dân gian.

(*b) Nbs. mạn phép được in đậm và in nghiêng để nhấn mạnh. Viết tắt: iđ. & in..

(*c) Xin vui lòng xem: Trần Xuân An, “Nguyễn Văn Tường với nhiệm vụ lịch sử sau cuộc kinh đô quật khởi, 05. 7. 1885”, Hội thảo khoa học: Nhân vật lịch sử Nguyễn Văn Tường (1824 – 1886) – Các báo cáo khoa học, Trung tâm Khoa học xã hội & nhân văn Huế – Viện Đại học Huế, Hội Khoa học lịch sử Thừa Thiên – Huế ấn hành, Huế – 02.7.2002, tr. 59 – 83. Tháng 8.2003 (HB.3), tự nhuận sắc; in lại ở sách khác… Đặc biệt là tiểu mục: 3.b. Nhiệm vụ lịch sử với lập trường kiên định, thái độ chính trị “nhất dạng”; Sự ngộ nhận, xuyên tạc; Thực dân pháp thao túng trong sự nhân danh triều đình; Nỗi khổ tâm của Nguyễn Văn Tường.

(*d) Đình thần, nói theo cách nói của Trần Trọng Kim, “nhiều người đã biết theo chính sách bảo hộ cho nên mọi việc trong Triều đều được yên ổn”. Đình thần ấy cùng Tôn nhân phủ kết án (!): “Tôn nhân phủ và đình thần dâng sớ tâu bày tội trạng của Nguyễn Văn Tường và Tôn Thất Thuyết, xin tước hết quan tước và tịch thu gia sản; tham tri Trương Văn Đễ đã quá cố, và chưởng vệ Trần Xuân Soạn, đều là bè đảng làm loạn, cũng tước cả quan chức. Trong bọn ấy, thì Tôn Thất Thuyết, Trần Xuân Soạn, xin do quan địa phương xét bắt bằng được và chém ngay, để tỏ rõ hiến pháp trong nước. Vua nghe theo” (Đại Nam thực lục chính biên [ĐNTL. CB.], tập 37, sđd., tr. 35).
(*e) CAOM. Paris (Centre: Archives d’Outre-mer, dépôt de Paris [:Trung tâm Lưu trữ [Bộ] Hải ngoại, kho đặt tại Paris]), CAOM. Aix (Centre: Archives d’Outre-mer, dépôt d’Aix-en-Provence [: Trung tâm Lưu trữ [Bộ] Hải ngoại, kho đặt tại Aix-en-Provence]), CAAE (Centre: Archives du Ministère des Affaires étrangères [: Trung tâm Lưu trữ của Bộ Ngoại giao Pháp])….

(*g) Câu đối song thất.

((*)) Chú thích của Tạp chí Xưa & Nay:
Kế nước đúng sai trang sử quyết
Phương trời sống chết cánh hồng chao
(Tôn Thất Mạnh Hào dịch).
Đào Tấn cũng là một đại thần triều Nguyễn, được Nguyễn Văn Tường gợi ý về hưu sớm lúc tuổi 40, để chuẩn bị phong trào chống Pháp ở các tỉnh Nam Trung Kỳ.


(1) Xin xem thêm: Lời Toà soạn giới thiệu bài viết của Từ Vân (con gái của bà Nguyễn Thị Ngọc Oanh – bà Oanh là hậu duệ đời thứ tư của cụ Nguyễn Văn Tường). Bài viết ấy được đăng cùng số tạp chí Xưa & Nay ghi trên, tr. 10 – 12. Trong đó, có đoạn khẳng định rõ việc giám định về tính xác thực của tư liệu sưu tầm được: “Những chuyến đi dài ngày đến những nơi xa xôi trên trái đất, cuối cùng đã giúp hai người tìm được trong đống hồ sơ bị lãng quên những tài liệu chân xác liên quan đến Nguyễn Văn Tường”. Về bài viết của Từ Vân, có đoạn thuật lại việc tìm được các tư liệu cực kì quan trọng: “Tim tôi càng đập mạnh khi cầm trong tay tờ điện tín cũ rích mang chữ kí kiêu ngạo của tướng De Courcy đã hơn 100 năm qua, ra lệnh lưu đày Nguyễn Văn Tường ra Côn Đảo, rồi đưa đến Tahiti. Giờ đây, 115 năm sau, cháu gái sáu đời có dịp chứng kiến.
Rồi một sự tình cờ khác bỗng đến trước mắt tôi, một bằng chứng sống động chứa đựng lời buộc tội để kết án Nguyễn Văn Tường chống lại người Pháp: “Văn kiện dùng để nghiên cứu những giai đoạn về vấn đề Bắc Kỳ: Sự nổi dậy”, đó là do Tổng Giám mục Puginier soạn ra. Cái bằng chứng quan trọng này đã làm hai hàng nước mắt của tôi phải chảy ra. Tôi vội gọi điện thoại báo cha mẹ tôi những tin mừng của ngày đầu khám phá” (bài đã dẫn, tr. 11).





MỘT VÀI TƯ LIỆU
TRONG CHUYẾN ĐI THỰC ĐỊA
Ở QUẢNG TRỊ
(SAU KHI THAM DỰ CUỘC HỘI THẢO KHOA HỌC
VỀ NHÂN VẬT LỊCH SỬ NGUYỄN VĂN TƯỜNG
[1824 – 1886]
TẠI HUẾ, DO TRUNG TÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN THUỘC VIỆN ĐẠI HỌC HUẾ, HỘI KHOA HỌC LỊCH SỬ THỪA THIÊN – HUẾ PHỐI HỢP TỔ CHỨC,
DƯỚI SỰ CHỦ TRÌ HỘI THẢO
CỦA HỘI KHOA HỌC LỊCH SỬ VIỆT NAM,
02.7.1885 [22.5 ÂL., NHÂM NGỌ]).

I. Ngày 04.7.2002, lúc khoảng 14 giờ, tôi đến khảo sát, chụp ảnh và ghi chép nguyên văn các dòng chữ Hán – Nôm đã được dịch ra quốc ngữ trên tấm bia đá phía sau tháp tử đạo tại làng Trí Bưu (Cổ Vưu), Quảng Trị.
Các chữ được khắc trên tấm bia đá:
LĂNG TỬ ĐẠO TRÍ BƯU
ĐỂ TƯỞNG NIỆM MUÔN ĐỜI CÔNG ĐỨC TỔ TIÊN
LỊCH SỬ BIẾN CỐ TỬ ĐẠO

Năm 1885, sau khi kinh đô Huế thất thủ, phái Văn thân xứ Dinh Cát phát động phong trào “Bình Tây sát tả”.
Sáng ngày 06.9.1885, phong trào được phát lệnh trong thành Quảng Trị.
Tối ngày 06.9.1885, hơn 800 giáo hữu Trí Bưu chia thành 2 nhóm chạy vào LA VANG lánh nạn cùng với cố Mathey (Thiện) [*] và cha phó Bửu [khoảng để trống, có lẽ để chua tên tiếng Pháp – TXA. chua thêm (ct.)] nhưng sau đó vì sợ không an toàn, nhóm của cha Bửu [khoảng để trống – TXA. ct.] lại trở về Trí Bưu.
Ngày 07.9.1885, quân Văn thân chiếm làng Trí Bưu và đốt phá nhà thờ, trong đó có cha phó và hơn 400 giáo hữu bị thiêu sát.
Sau biến cố, cha Bùi Thông Bửu và hơn 600 giáo hữu đã anh dũng chết vì đạo Chúa.


CỔ TỰ HÁN – NÔM
LĂNG TỬ ĐẠO:

1) Bốn góc đỉnh tháp:
Ai làm cho người hoà thuận ấy là phước thật.
Ai có lòng thương xót người ấy là phước thật.
Ai khóc lóc ăn năn tội ấy là phước thật.
Ai chịu khốn vì đạo ngay ấy là phước thật.
2) Bốn mặt tháp:
a. Tiền:
Nhất thiên bát bách [**]
Thiên Chúa giáng sanh
Cửu thập tam niên.
[Năm 1893 / Thiên Chúa giáng sinh – TXA. ct.].
b. Hậu:
Nhất thiên bát bách
Hồng ân Thiên Chúa
Bát thập ngũ niên.
[Năm 1885 / hồng ân Thiên Chúa – TXA. ct.].
c. Hữu:
Ất dậu niên cửu nguyệt thất nhật
Giáo hữu sở bị thiêu sát tử.
07.9.1885
[Ngày bảy tháng chín [dương lịch] năm Ất dậu [***]
Giáo hữu vốn bị chết [do] đốt giết – TXA. ct.].
d. Tả:
Lục bách dư giáo hữu hài cốt
Dĩ an táng chính tại thử địa.
[Hơn 600 hài cốt giáo hữu
Vốn an táng đúng tại [chỗ] đất này – TXA. ct.].
3) Bốn góc tháp dưới:
a. Tiền – hậu:
Qua đống lửa than đốt tan mọi chước
Cõi sinh thường muôn phước hy hoàn.
Phó mình con cho ngọn lửa tiêu pha
Chốn thánh điện dâng mà tế lễ.
b. Hữu – tả:
Vì đạo Chúa mặc lưỡi gươm phân xẻ
Tiết trung can rạng rỡ làm gương.
Theo cờ Thánh giá thắng cả ba thù [Nho, Phật, Lão?!? – TXA. ct.]
Chức tử đạo nghìn thu rực rỡ.

[Hán + Nôm].
CON CHÁU ĐỒNG PHỤNG LẬP.
CHÍNH TẠO: 1893.
TÁI TẠO: 1997 - 1998.

Các chữ khắc trên tấm biển đá nhỏ dưới tấm bia đá:
KÍNH NHỚ CÁC THÁNH TỬ ĐẠO TRÍ BƯU
HỘI ĐỒNG HƯƠNG TRÍ BƯU
TẠI: QUẢNG THUẬN, 12-8-1998.

[Tháp vốn được khảm các dòng chữ Hán – Nôm như trên bằng mảnh gốm sành sứ, vào năm 1893, và có lẽ đã bị bom đạn làm hư hỏng ít nhiều; nay đã được tái tạo đúng như nguyên trạng, với thời gian thi công trong khoảng hai năm, từ 1997 đến 1998 – TXA. ct.].

[*] Theo Henry de Pirey, bài “ Một kinh đô phù du: Tân Sở”, BAVH., bản dịch, tập I, Nxb. Thuận Hoá, 1997, tr. 233: 2 tên thực dân – cố đạo MATHEY này và cố đạo Patinier – đã đẫn quân Pháp lên Tân Sở, tấn công, đốt sạch, phá sạch Tân Sở cùng các làng Mai lộc, Mai Đàn và Bảng Sơn quanh đó.
Xem thêm: Jabouille, “Một trang viết về lịch sử Quảng trị: tháng 9. 1885”, BAVH., bản dịch, tập X, Nxb. Thuận Hoá, 2002, tr. 433 – 445… TXA chú thích.

[**] Trên bia đá, các dòng chữ quốc ngữ, Hán, Nôm được trình bày theo hàng dọc, theo nguyên tắc đọc từ phải sang trái. Chúng tôi chép lại theo cách trình bày và đọc của chữ quốc ngữ, thường được viết theo hàng ngang, đọc từ trái sang phải. TXA.

[***] Xin lưu ý: Bia được khắc ghi ngày, tháng, năm dương lịch (07.9.1885) nhưng có chua thêm năm thuộc âm lịch (Ất dậu). Lưu ý thêm: Ngày Nguyễn Văn Tường bị Pháp bắt lưu đày là 27.7 âm lịch, Ất dậu, đối chiếu chính xác với dương lịch là 05.9.1885. TXA.

II. Ngày 04.7. 2002, lúc khoảng 04 giờ, tôi về viếng mộ, dâng hương, chụp ảnh và ghi chép tại Đền thờ Kì Vĩ phụ chính đại thần Nguyễn Văn Tường (vừa mới được xây dựng), tại làng An Cư, xã Triệu Phước, tỉnh Quảng Trị:

Chiêm khởi [:khỉ], kính tôn, tinh linh hộ thế xán tung thiên
Ngưỡng di, cao trãi [:trĩ], thể phách tuẫn quốc hoàn bổn quán.

[Tạm dịch:
Chiêm nghiệm cao trông,
thờ kính tôn vinh:
anh linh giúp cho thế hệ chói lên trời dọc;
Ngưỡng vọng xa ngó,
quý trọng trọn đầy:
thể phách chết vì non sông về lại quê xưa.
– TXA.].


Kỉ niệm chuyến đi hội thảo khoa học và khảo sát thực địa:

Tp. HCM. – Huế (Cửa Hữu, cửa Hiển Nhơn, Khu Lục bộ,
nhà thờ Kim Long, cửa Chương Đức, miếu Âm Hồn,
đàn Âm Hồn) – Thành Cổ – làng Trí Bưu – làng An Cư – làng Hậu Kiên (nhà lưu niệm cố tổng bí thư Lê Duẩn) –
Đông Hà – sông Bến Hải (các làng Xuân Hoà, Hải Chử
thuộc xã Trung Hải, các làng Võ Xá, Kinh Thị [chợ Kên (Kênh?)], có đường tỉnh lộ đất đỏ dọc sông Bến Hải, thuộc xã Trung Sơn;
cầu Tiên An, làng Giàng Phao, Kinh Môn
bên kia đường sắt) – Cam Lộ (Khu Chính phủ lâm thời Mặt trận Giải phóng Miền Nam Việt Nam 1973 – 1975;
vùng Cùa, di tích thành luỹ Tân Sở thuộc xã Cam Chính) –
Tp. HCM.,
từ ngày 01 đến 08.7.2002 (21 - 28.5 âl., Nhâm ngọ, năm thứ 2 công nguyên Hoà Bình).
TRẦN XUÂN AN



TƯ LIỆU DÂN GIAN CHĂM
NHÂN CHUYẾN ĐI NINH THUẬN
KHỞI HÀNH VÀO LÚC KHOẢNG 04 GIỜ 30 NGÀY 17.7.2002,
VỀ ĐẾN NHÀ VÀO LÚC 03 GIỜ NGÀY 20.7.2002

Rất tình cờ, ở Chakleng (làng Mỹ Nghiệp, Ninh Phước, Ninh Thuận), Inrasara tặng tôi cuốn Văn học Chăm II – Trường ca, Nxb. Văn hoá Dân tộc, 1996. Mở ra, tình cờ phát hiện một đoạn ngắn trong trường ca Ariya Po Parơng [đọc là Pô Parăng], có nhắc đến cuộc Kinh Đô Quật Khởi, 05.7.1885 (23.5 Ất dậu), ở tr. 170 - 174. Đây là trường ca do một người Chăm, bị bắt buộc phải đi “du khảo bác vật” với tên quan lớn Pháp (pô Parăng [France]) E. Aymonier, viết về chuyến đi đó. Đại Nam thực lục, bản dịch, tập 36, Nxb. KHXH., 1976, tr. 158 có chép lại việc Viện Cơ mật – Thương bạc cấp giấy phép cho chuyến “du khảo bác vật” này trong một đề mục thuộc tháng 06 năm Giáp thân (1884). Có lẽ E. Aymonier đã “du khảo” ở phía nam thuộc tỉnh Bình Thuận xưa (Phan Thiết) vài ba tháng, rồi mới yêu cầu quan sở tại điều động những người Chăm ở phía bắc thuộc tỉnh Bình Thuận xưa (Phan Rang) đi theo y. Chính HƠP AI, tác giả bản Ariya Po Parơng, đã viết rõ: tác giả khởi hành từ tháng giêng năm Ất dậu (1885):
… “Ngày hai mươi tháng giêng năm Dậu (1)
Quan Pháp sai bắt chúng tôi đi cùng” …
(sđd., tr. 163).
Về cuộc Kinh Đô Quật Khởi, nguyên văn bản dịch của Inrasara như sau:
“… Vào lúc bảy giờ ngày hai mươi tháng sáu (1)
Quân Pháp đánh vào Huế, bắn phá dinh vua
Khói lửa bay tung mù trời
Quân nhà Nguyễn chết như kiến, cả ngựa lẫn
voi
Sau đó, quân Pháp tiến vào mở cửa thành
Binh lính trong thành sống sót, chẳng biết
đường nào mà đi
Mãi tới trưa mới tìm được lối ra
Bụng đói, mắt thâm quầng, chân run đi
không nổi
Hoảng hồn bước lên rồi té ngã
Thêm choáng váng bởi thuốc súng, người họ
mệt lả bơ phờ
Có người bò trườn ra tới cửa thành
Vừa ngóc đầu lên nhìn thì bị một tên lính Tây
đứng gác, nạt lớn không cho ra
Khi ấy (nghe tin) Tôn Thất Thuyết phò vua
Cùng chạy ra khỏi thành đi ẩn náu ở xứ khác
Nguyên soái (2) cho chạy tin khắp đất nước
Lệnh cho quân nhà Nguyễn trong mười ngày
phải (nộp vũ khí) xin hàng
Tướng (3) trong triều cũng đã giao thành
Rồi ký sắc lệnh chịu hàng không chống Pháp
nữa
Ngoài khơi, bảy chiến hạm chực sẵn
Sáng hôm sau, quân Pháp ra lệnh truy tìm
nhà vua…”
(sđd., tr. 171 & tr. 173).

(1)Có lẽ tác giả người Chăm có tên là Hơp Ai này tính ngày tháng theo lịch Chăm.

(2)Nguyên soái (nguyên tác: “Ngwen Srwac”, xem sđd., tr. 172): chỉ De Courcy. Xin xem thêm từ “nguyên soái” này ở sđd., câu 196, tr. 191.

(3)“Tướng”, nguyên văn tiếng Chăm là “Praung Ywơn” (sđd., tr. 172), có nghĩa là tướng người Kinh hoặc đại thần người Việt, chỉ đệ nhất phụ chính đại thần Nguyễn Văn Tường. Thật ra, quân tướng Pháp đã chiếm thành bằng cuộc tấn công với hoả lực mạnh. Nguyễn Văn Tường phải kí thoả ước tạm thời với De Courcy để nhận lại kinh thành. Tác giả Hơp Ai của kí sự thơ này không ghi nhận được kế sách kẻ đánh, người đàm, “kẻ ở, người đi” của Nguyễn Văn Tường và Tôn Thất Thuyết.
TXA. chú thích.

Đoạn thơ lục bát kiểu Chăm (từ cặp câu thứ 61 đến cặp câu thứ 70) nói trên, vào ngày 24.7.2002, Inrasara đã dịch sát nghĩa từng chữ (theo cách thức dịch tư liệu) như sau:

… “Năm [ngày sau ngày rằm: 20] tháng sáu, đánh ở Huế
Bảy giờ sáng, Pháp đánh tan thành (dinh)

Khói lửa tối tăm mù mịt
[Người] Kinh chết như kiến, ngựa [và] voi không sót

Rồi họ mở cửa thành [dinh] thật lớn
Mấy [:số] tàn quân sót lại không biết đi nơi đâu

Giữa trưa mới thấy lối ra
Bụng đói, mắt quầng, run rẩy đi không nổi

Sợ hãi bước đi, đứng dậy rồi lại ngã
Kiệt lực không đi nổi, [mùi thuốc] đạn làm xây xẩm

Trườn lết ra tới cổng thành
[Gượng] dậy, trông thấy một người Tây [nạt] nộ
không cho ra (1)

Đâu vua [?], Tôn Thất Thuyết, ông ta bồng [:phò]
Chạy ra, mang lên, đi đâu xứ khác

Nguyên soái [Pháp] cho chạy thư khắp xứ
Đánh hoặc làm thế nào, ông ta hẹn mười ngày

Tướng Việt [:Kinh] chịu giao thành [:dinh] cho Tây
Làm thư rồi ban bố*, xin hàng, không dám đánh

Tàu Pháp đậu ở Huế bảy chiếc
Buổi sáng nó [:họ] ở không [:không động tĩnh], nó [:họ] chạy
thư đi tìm vua (2)”…

(1)Dị bản: Nhìn thấy một người Tây treo cờ lên.

(2)Dị bản: Treo cờ, chuẩn bị xong, cho thư tìm vua.
*Nguyên văn tiếng Chăm là brei, có nghĩa là thông [qua]. Cả câu là: Làm [văn] thư xong, thông qua, xin chịu [thua], không dám chiến đấu [nữa].

Ngoài ra, ariya Po Parơng còn ghi nhận không khí trước ngày Kinh Đô Quật Khởi 05.7.1885, trước sự uy hiếp Huế của De Courcy, ở Bình Định, Quảng Nam, Quảng Ngãi:
“… Riêng tôi cáo từ mọi người ra Bình Định
trước tiên
Lòng những e ngại khi phải đi một mình
Ông parơng khôn hơn nên lánh mặt
Xua chúng tôi toàn bọn đi trước dẫn đường
…”.
(sđd., tr. 167).

“… Một người Kinh đi tới, tay xách theo chiếc
roi
Người thấp lùn và xấu trai, hắn bảo có quen
tôi
Lời lẽ hắn với vẻ chân thành
Bảo vì thương tôi nên mới báo tin cho biết
Rằng có người doạ tìm giết
Rồi khuyên can tôi đừng đi tiếp nữa, kẻo chết
oan
Thật là số hên nên được người Kinh thương
Quay về ngay trong đêm, tôi ghé ngủ nhờ nhà
dân đạo
Sáng sớm, sau khi nhét thuốc súng vào đầu
súng
Chúng tôi trở về báo cáo với quan Pháp
Tôi trình bày những điều nghe được
Với po Parơng và ông ta thở dài
Ở Quảng Nam, Quảng Ngãi cũng có người
Chuẩn bị gươm đao để tấn công đoàn chúng
tôi
Doạ giết rồi họ sẽ chạy thư đi
Cho quân bao vây và nhắn tin khích người
Pháp tới đánh
(sđd., tr. 171).

Và về phong trào Cần vương ở Trung – Bắc kì:
“… Ngày chủ nhật, Tây lên tấn công
Tàu salút chuyển quân suốt đêm ngày không
nghỉ
Bên Pháp một ngày có năm mươi quân bị giết
Khi đem chôn xác chết, họ cởi hết áo quần
Tập tục như thế, ai họ cũng không chừa
Thể xác trần truồng không còn manh áo
Đêm đêm chúng tôi sợ run không ngủ được
Nuốt không trôi cơm nên ai nấy mệt phờ
Mãi khấn nguyện trời cao phò hộ độ trì
Được bình an thoát khỏi chốn này nhờ ơn
trên
Còn khi nghe tiếng súng nổ đùng đùng
Lại bắt đầu thấy hoảng nên chẳng ai ngó tới
bữa ăn
Rồi thì xúm nhau lại cầu nguyện nữa
Đó là nơi họ gọi Phủ Kho Quang (1) (2) …”.
(sđd., tr. 177).

(1)Khauw Kwang: tên một phủ ở Bắc kì (?).Inrasara chú thích.

(2)Phủ Nho Quan ở Ninh Bình?

Và những mưu toan thực dân với luận điệu lừa mị, trong khi chúng đã vơ vét, cướp đoạt tượng thờ, bia đá Chăm trong chuyến đi này …

Tp. HCM., ngày 21 – 24.7.2002
(12 – 15 tháng 06 Nhâm ngọ,
năm thứ 2 công nguyên Hoà Bình).


TRẦN XUÂN AN


TRẦN XUÂN AN

Trích bài thơ dài
CẢM NHẬN BÊN DÒNG SÔNG



12
Nguyễn Đình Chiểu

Phương nam! Rời rã mỏi mòn
Đã mất Mẹ, Nước có còn, Nước ơi!
Có đôi mắt cũng mù rồi
Bước qua số phận, chân người cứng thêm

Ước mơ – ngọn lửa bùng lên
Nung rèn gươm bút Vân Tiên giữa đời
Từng đơn thuốc ấm tình người
Với quê hương lại rạng ngời trái tim
Đuốc nghĩa quân sáng niềm tin
Từ trong dân dã cái nhìn sáng hơn?

13
Nguyễn Văn Tường, Tôn Thất Thuyết,
Lễ tần Nguyễn Nhược Thị Bích,
Nguyễn Thượng Hiền,
và vè “Thất Thủ kinh đô”

Dụ Cần vương dậy Trường Sơn
Giải Triều, trung nghĩa, tờ son gửi về
Bình Tây, sát tả-tà-mê
Cho Tân Sở – Huế tư bề hoa giăng
Lễ tần viết sắc “hoà” ban
Tôn Thuyết chiến để Nguyễn Văn Tường đàm
Pháp tung cáo trạng Bắc, Nam
Lưu đày Kì Vĩ, chết thầm đảo xa
Súng rền, khâm sứ bôi nhoà
Hòm tù đỏ, Hạnh Thục ca hoen vàng
Vè Thất thủ giữa dân gian
Giọng run lệch, bởi chuông vang giáo đường
Thơ Nguyễn Thượng Hiền buốt sương
Thương thái phó +, ngó sen vương, dặm về

14
Nguyễn Khuyến
và sau đó, Trần Tế Xương

Bơ vơ, về với làng quê
Nụ cười Yên Đổ thoáng nghe thu buồn
Cờ dở cuộc, bạc chạy lường ++
Quốc kêu khuya vắng, máu tuôn thấm lòng

Rất riêng, vẫn một nguồn sông
Chút tình non nước vọng hồn nước non
Trách mình chi, buổi hoàng hôn
Chao ơi phỗng đá vẫn còn đó đây
Lửa bùng, tắt nghẹn, đêm dày
Mưa đời vây bủa như dây trói lòng

Niềm đau buốt xót tận hồn
Tú Xương bật tiếng cười dòn, ngẩn ngơ
Lạc đường, ngóng đến bao giờ
Giật mình, lạnh tiếng gọi đò, đêm khuya

15
Phan Bội Châu
và “Việt Nam vong quốc sử”…

Mắc mưu Hữu Độ toả mê
Khang, Lương (Đại Hán!), xoá thề Cần vương
Duy tân theo Nhật, nghẹn đường
Súng gươm Quang phục, tự cường, khôn nguôi
Mai Lão Bạng +++, sống bên Người
Sách kia ai sửa?
Quên lời sắt son!
Gót chân ngang dọc chưa mòn
Mắt sương Bến Ngự vẫn còn ngóng trông
Xa xa một ngọn cờ hồng ++++
Nụ cười hi vọng, ấm dòng sông Hương

TRẦN XUÂN AN


+ Ngoài tước hiệu Kì Vĩ quận công, Nguyễn Văn Tường còn có cung hàm là thái phó.
Bài thơ có nguyên văn như sau:

[VÔ ĐỀ]
Huyền vũ lâu tiền mãn địa sương
Dũ phong đình nguyệt thái thê lương
Sơn xuyên cố quốc âm tình cải
Nhung mã toàn gia đạo lộ trường
Không quá Tây môn bi thái phó
Thùy tòng Bắc hải vấn trung lang
Ngu uyên thử nhật vô tiêu tức
Trường đoạn thanh khê bích ngẫu hương.

Mai Sơn
NGUYỄN THƯỢNG HIỀN
(1868 - 1925)

Huyền Vũ lầu không đặc lớp sương
Trăng sân gió cửa quá thê lương
Non sông cố quốc bao thay đổi
Gươm ngựa toàn gia vạn dặm trường
Không (*) đến cửa Tây thương thái phó
Ai về biển Bắc hỏi trung lang (**)
Tìm trời đáy biển (***) không tin tức
Đứt ruột sen khe lộ ngó hương.

Chu Thiên Hoàng Minh Giám
(1904 – 1995)
dịch thơ

(*) Không: cái hư không, tức là Trời.
(Không và thuỳ [:ai], tiểu đối với nhau).
(**) Làng Trung Lương bên sông Bến Hải?
Quan chức thượng nguồn trung thành (trung lang)?
Có lẽ là hai chức danh đối với nhau theo phép tiểu đối.
(***) Ngu uyên: phương mặt trời lặn, chứ không phải là đáy biển!

++ Cũng chẳng nghèo mà cũng chẳng sang
Chẳng gầy chẳng béo chỉ làng nhàng
Cờ đang dở cuộc, không còn nước
Bạc chửa thâu canh, đã chạy làng
Mở miệng nói ra gàn bát sách
Mềm môi chén mãi tít cung thang
Nghĩ mình mà gớm cho mình nhỉ
Thế cũng bia xanh cũng bảng vàng!
Dị bản: Ta chẳng nghèo mà cũng chẳng sang.

+++ Theo cuốn Tự Phán của Phan Bội Châu (Nxb. Văn hoá – Thông tin tái bản, 2000, tr. 142 – 144): Mai Lão Bạng là một linh mục Thiên Chúa giáo. Ông có tham gia vào Duy Tân hội và Quang Phục hội của Cường Để và Phan Bội Châu. Tổng cộng số thời gian Mai Lão Bạng bị chính quyền Trung Hoa, Xiêm La, chịu áp lực của Pháp, bắt giam, và bị chính thực dân Pháp bắt tù, lưu đày ở Côn Đảo là gần mười lăm năm. Mai Lão Bạng là một người yêu nước, hoạt động chống Pháp, nhưng vẫn là một linh mục Thiên Chúa giáo, và theo lời Phan Bội Châu, “một đời Cụ vì thương xót đồng bào, ngậm cay nuốt đắng, vào tội ra tù, thiệt là tín đồ của Dê Du vậy” (sđd., tr. 144). Dê Du chính là Chúa Jésus, người đã chống đế quốc La Mã xâm lược của các çésar một cách “ôn hoà”, trong lịch sử Do Thái, được chép lại trong Kinh Thánh.
Trong cuốn Tự Phán, Phan Bội Châu xác nhận những điều trên. Tuy nhiên, cụ Phan cho rằng Mai Lão Bạng là đại biểu của Giáo hội Thiên Chúa giáo; điều đó là không thể chính xác được, vì chính các cố đạo thực dân Tây (Pháp, Tây Ban Nha), vốn nắm các chức sắc trong “giáo hội Thiên Chúa giáo Việt Nam”, đã cải tạo tư tưởng yêu nước, chống Pháp của Mai Lão Bạng, đồng thời chúng đe doạ Mai Lão Bạng sẽ bị vạ tuyệt thông (bị rút phép thông công, bị cô lập) (*a). Do đó, rõ ràng Mai Lão Bạng hoạt động độc lập, không tuỳ thuộc vào cố đạo thực dân Pháp, Tây Ban Nha. Ngoài ra, cũng trong Tự Phán, Phan Bội Châu có viết: “Tôi khi chưa gặp Cụ, chưa chụp bóng bao giờ, đến lúc hoan nghênh Cụ, tôi mới cùng Cụ chung nhau chụp một bức ảnh. Người Pháp biết được ảnh tướng tôi là từ lúc đó” (sđd., tr. 144). Xin hiểu câu này, trong điều kiện máy ảnh còn thô sơ, chưa có ống kính tối tân hiện đại, việc mật thám chụp ảnh lén là rất khó; chỉ có thể chụp ảnh trong hiệu ảnh. Chúng tôi nghĩ rằng, việc Pháp có được ảnh Phan Bội Châu để truy nã hẳn là ngẫu nhiên.
Dẫu sao, Mai Lão Bạng vẫn là một nhân vật ngây thơ hoặc nhân vật bi kịch: một linh mục Thiên Chúa giáo phải chống lại Giáo hội Thiên Chúa giáo, mà các giáo hoàng thời bấy giờ thực chất là những tên thực dân chủ trương xâm lược (xin xem lại các tư liệu đã dẫn (*b)).
Trong những năm cuối đời, ông sống gần gũi với cụ Phan tại Bến Ngự (Huế), và mất sau cụ Phan. Người ta có thể ngờ rằng, ngoài tư tưởng đoàn kết của cụ Phan, chính Mai Lão Bạng khiến cho cụ Phan đã ít nhiều bày tỏ sự tranh thủ cảm tình đối với Thiên Chúa giáo; hoặc ngờ rằng, chính Mai Lão Bạng đã lén lút sửa sách của Phan Bội Châu theo chính kiến của một linh mục Thiên Chúa giáo kính Chúa, yêu nước, thương xót giáo dân Việt Nam, chống Pháp, chống Tây Ban Nha, chống Toà thánh Vatican, và chắc hẳn Mai Lão Bạng cũng chống những lãnh tụ, nghĩa sĩ Văn thân, Cần vương chủ trương Bình Tây sát tả. Phải chăng linh mục Mai Lão Bạng vẫn muốn biện minh cho Thiên Chúa giáo trong chừng mức có thể? Chúng tôi mong sẽ đọc được những tư liệu xác thực, đã được giám định về Mai Lão Bạng. Chúng tôi vẫn theo câu ngạn ngữ đã thành phương châm: “tri chi vi tri chi, bất tri vi bất tri, thị tri dã” (biết thì nói biết, không biết thì nói không biết, ấy là biết vậy). Có một điều đã được nhiều nhà văn bản học khẳng định, rằng sách của Phan Bội Châu đã bị sửa chữa, sao chép sai lạc, “tam sao thất bản” (sao chép ba lần, có đến bảy dị bản!), “xuất [bỏ bớt], nhập [thêm vào]” (**), nhưng không rõ là do ai, những người nào, hoặc có thể do chính cụ Phan tự sửa chữa? Chúng tôi không dám gieo nghi án cho cụ Phan và linh mục Mai Lão Bạng. Lúc này, chúng tôi vẫn gọi Mai Lão Bạng là “ông”, không phải một cách trung tính, mà ở mức độ kính trọng (?) (như đã phân tích).
(*a) & (*b) Xem: Linh mục Trần Tam Tỉnh, Thập giá và lưỡi gươm, linh mục Vương Đình Bích dịch từ nguyên tác tiếng Pháp, Nxb. Trẻ, 1988, tr. 189 – 190.
(**) Xem Lời nói đầu: Những tác phẩm của Phan Bội Châu (tập 1), gồm Việt Nam vong quốc sử, Việt Nam quốc sử khảo, Văn Tạo chủ biên và nhiều người dịch, hiệu đính, Nxb. KHXH., 1982, tr. 6 – 7.

++++ Trong cuốn Tự Phán, sđd., tr. 232 – 236, tiểu mục “Giao thiệp với người Nga và thấy sự xảo quyệt của họ”: Vào năm Canh thân (1920), cụ Phan Bội Châu có tiếp xúc với phái đoàn cán bộ Liên Xô do Voitisky làm trưởng đoàn. Cụ Phan cho đoàn cán bộ Liên Xô là xảo quyệt, khi họ đề nghị cụ đứng vào hàng ngũ những người cộng sản quốc tế và tuyên truyền về cách mạng vô sản cho nhân dân Việt Nam. Nhưng về sau, theo nhiều nhà nghiên cứu, cụ Phan Bội Châu lại viết tác phẩm Chủ nghĩa xã hội, tán thành phong trào cách mạng vô sản này, với niềm hi vọng lớn.



SÁCH BÁO THAM KHẢO (*)

1.BAVH. (Bulletin des amis du vieux Huế), Những người bạn cố đô Huế, 1914 – 1925, 11 tập và 1 tập bản dẫn, Đặng Như Tùng, Bửu Ý, Hà Xuân Liêm, Phan Xuân Sanh, Phan Xưng, Tôn Thất Hanh, Nguyễn Vi, Lê Văn, Trần Thanh, Nhị Xuyên, Nguyễn Cửu Sà dịch, hiệu đính, biên soạn bổ sung bản dẫn, Nxb. Thuận Hóa, 1997 – 1998, 2001 – 2002.

2.Ban Tuyên huấn Trung ương, Vụ Huấn học, Lịch sử thế giới, Nxb. Sách Giáo khoa Mác – Lê-nin, 1975.

3.Bửu Kế, Chuyện Triều Nguyễn, Nxb. Thuận Hóa, 1990.

4.Cao Xuân Dục, Quốc triều đăng khoa lục, Trúc viên Lê Mạnh Liêu dịch, TT. HL. Bộ VHGD. và TN., Sài Gòn, 1962, (bản in 1974).

5.Cao Huy Thuần, “Đạo Thiên Chúa và chủ nghĩa thực dân [Pháp] tại Việt Nam [1957 – 1914]” (Christianisme et colonialisme au Viet Nam, 1957 – 1914), luận án tiến sĩ tại Pháp (1969), bản dịch, in ronéo của Đại học Vạn Hạnh, Sài Gòn, 1973; vừa được Nxb. Tôn Giáo tại Hà Nội xuất bản với bản dịch mới của Nguyên Thuận (vào tháng 02.2003), với sự thay đổi nhan đề: “Các giáo sĩ thừa sai và chính sách thuộc địa của Pháp tại Việt Nam (1957 – 1914)” (Les missionnaires et la politique colonial française au Viet Nam, 1857 – 1914) [!?!].

6.Cao Xuân Dục và Quốc sử quán triều Nguyễn, Quốc triều hương khoa lục, Nguyễn Thúy Nga, Nguyễn Thị Lâm, Cao Tự Thanh dịch, hiệu đính, Nxb. TP. HCM., 1993.

7.Du Long, bài báo “Khi giáo hoàng thống hối…”, Tuổi trẻ Chủ nhật, số 11 – 2000/848, 19.3 – 25.3.2000.

8.Dương Kinh Quốc, Việt Nam, những sự kiện lịch sử, 1858 – 1896, tập 1, Nxb. KHXH., 1981.

9.Hoàng Tiến, Chữ quốc ngữ và cuộc cách mạng chữ viết thế kỉ 20, Nxb. Thanh Niên, 2003.

10.Khoa Sử Trường Cao đẳng Sư phạm TP. HCM., Kỉ yếu Hội nghị Khoa học lịch sử về “Nhóm chủ chiến Triều đình Huế cuối thế kỉ XIX”, 11.1991.

11.Khoa Sử Trường Đại học Sư phạm TP. HCM., Kỉ yếu Hội nghị Khoa học lịch sử về “Nhóm chủ chiến Triều đình Huế và Nguyễn Văn Tường”, 20.6.1996.

12.Lam Giang, Võ Ngọc Nhã (sưu tầm), “Đặng Đức Tuấn, tinh hoa công giáo ái quốc”, giới thiệu nguyên văn 2 hai sử ca: Dậu Tuất niên gian phong hỏa ký sự và Đại loạn năm Ất dậu, Sài Gòn, 1971.

13.Lê Quang Thái, Thử nhận định lại nhân vật Nguyễn Văn Tường (1824 – 1886), tạp chí Cửa Việt số 13, tháng 4.1992.

14.Lương An (sưu tầm, chỉnh lí, giới thiệu, chú thích), Vè chống Pháp, gồm vè Thất thủ Thuận An và vè Thất thủ kinh đô, Nxb. Thuận Hóa, 1993.

15.Nhiều tác giả, Đại cương lịch sử Việt Nam, toàn tập, Nxb. Giáo Dục, 2001.

16.Nhiều tác giả, Từ điển văn học, 2 tập, Nxb. KHXH., 1983 – 1984.

17.Nguyễn Bá Thế, Nguyễn Q. Thắng, Từ điển nhân vật lịch sử Việt nam, Nxb. Văn Hóa tái bản lần thứ 5, 1999.

18.Nguyễn Q. Thắng, Trần Văn Dư với phong trào Nghĩa hội, Nxb. VHTT., 2001.

19.Nguyễn Đắc Xuân, Hương giang cố sự, Tủ sách Sông Hương xb., 1987.

20.Nguyễn Đắc Xuân, Phụ chính đại thần Trần Tiễn Thành, Nxb. Thuận Hoá, 1992.

21.Nguyễn Nhược Thị Bích, Hạnh Thục ca, Trần Trọng Kim sưu tầm, phiên âm, Nxb. Tân Việt, 1950 (?).

22.Nguyễn Thị Mỹ Hạnh, Góp phần tìm hiểu một số vấn đề về Triều đình Huế giai đoạn 1883 – 1885 qua tác phẩm Hạnh Thục ca của Nguyễn Nhược Thị Bích, luận văn tốt nghiệp, khoá 1996 – 2000, Khoa Sử ĐHSP. TP. HCM., tháng 5. 2000.

23.Nguyễn Thiệu Lâu, Quốc sử tạp lục, Nxb. Mũi Cà Mau, 1994.

24.Nguyễn Văn Hồng, Vũ Dương Ninh, Võ Mai Bạch Tuyết, Lịch sử cận đại thế giới, 3 tập, Nxb. ĐH. và TTCN., 1985 – 1987.

25.Nguyễn Văn Kiệm (Viện Nghiên cứu tôn giáo), Sự du nhập của Thiên Chúa giáo vào Việt Nam, từ thế kỷ XVII đến thế kỉ XIX, Hội KHLS. VN., TT. UNESSCO. Bảo tồn và phát triển VHDT. Việt Nam, 2001.

26.Nguyễn Văn Mại (Tiểu Cao), Lô Giang tiểu sử, Nguyễn Hy Xước dịch, bản in ronéo (bìa in typo), 1961.

27.Nguyễn Văn Tường, Di cảo Nguyễn Văn Tường, Trần Đại Vinh dịch, Nxb.?, 1991.

28.Nguyễn Văn Tường (tác giả Kì Vĩ quận công thi tập), Kì Vĩ phụ chính đại thần Nguyễn Văn Tường (1824 – 1886), thơ – Vài nét về con người, tâm hồn và tư tưởng, Trần Viết Ngạc, Trần Đại Vinh, Vũ Đức Sao Biển, TS. Võ Xuân Đàn, GS. Đoàn Quang Hưng, Nguyễn Tôn Nhan, TS. Ngô Thời Đôn sưu tầm, khảo luận, phiên dịch, hiệu đính; Trần Xuân An chú thích, biên soạn…, chưa xuất bản.

29.Nguyễn Văn Tường, Kì Vĩ quận công thi tập, 65 bài thơ chữ Hán, Trần Viết Ngạc sưu tầm, giới thiệu, Trần Đại Vinh, Vũ Đức Sao Biển dịch, giới thiệu [mới 45 bài], tư liệu Hội nghị Khoa học lịch sử “Nhóm chủ chiến Triều đình Huế và Nguyễn Văn Tường”, 20.6.1996, ĐHSP. TP.HCM..

30.Phạm Văn Sơn, Việt Nam cách mạng cận sử, Sài Gòn, 1963.

31.Phan Bội Châu, Những tác phẩm của Phan Bội Châu, Chương Thâu dịch, Văn Tạo chủ biên, Hồ Song giới thiệu, Nxb. KHXH., 1982.

32.Phan Khoang, Trung Quốc sử lược, ấn quán Hồng Phát, bản in lần thứ 3, 1958.

33.Phan Khoang, Việt Nam Pháp thuộc sử (1858 – 1945), Phủ QVK. ĐTVH. (Sài Gòn), bản in lần thứ hai, 1971.

34.Phan Trần Chúc, Vua Hàm Nghi, Nxb. Thuận Hóa tái bản, 1995.

35.Quốc sử quán triều Nguyễn, Châu bản triều Tự Đức (1847 – 1883), Vũ Thanh Hằng, Trà Ngọc Anh, Tạ Quang Phát tuyển chọn và dịch (lược thuật), Ban Văn học thuộc Viện KHXH. TP. HCM. in ronéo, 1979; Trung tâm Nghiên cứu Quốc học chỉnh lí, Nxb. Văn Học, 5.2003.

36.Quốc sử quán triều Nguyễn, Đại Nam liệt truyện, chính biên, bản dịch Tổ Phiên dịch Viện Sử học, 4 tập, Nxb. Thuận Hóa, 1993.

37.Quốc sử quán triều Nguyễn, Đại Nam thực lục, chính biên, các tập từ 11 đến 38, bản dịch Tổ Phiên dịch Viện Sử học, Nxb. KHXH., 1964 – 1978.

38.Quốc sử quán triều Nguyễn, Tổ Phiên dịch Viện Sử học, Những trang Đại Nam thực lục về KVPCĐT. Nguyễn Văn Tường và các sự kiện thời kì đầu chống thực dân Pháp (1858 – 1885), Trần Xuân An chọn lọc, chưa xuất bản.

39.Quốc sử quán triều Nguyễn (QSQTN.), Quốc triều chính biên toát yếu, bản dịch tiếng Việt của QSQTN., Nxb. Thuận Hóa, 1998.

40.Thái Vũ, Nguyễn Văn Tường và vai trò của ông trong cuộc chống Pháp cuối thế kỷ XIX, tạp chí Cửa Việt số 13, tháng 4. 1992.

41.Tự Đức, Tự Đức thánh chế văn tam tập, quyển IX – XIV, tập 2, Bùi Tấn Niên, Trần Tuấn Khải phiên dịch, Tủ sách Cổ văn, UBDT. PQVK. ĐTVH. xb., Sài Gòn, 1973.

42.Tự Đức, Thơ văn Tự Đức, 3 tập, Nxb. Thuận Hóa tái bản, 1996.

43.Trần Ngọc Thêm, Cơ sở văn hóa Việt Nam, Trường ĐHTH. TP. HCM. xb.,1995.

44.Trần Tam Tỉnh, Thập giá và lưỡi gươm, Vương Đình Bích dịch từ nguyên tác tiếng Pháp, Nxb. Trẻ, 1988.

45.Trần Thị Kim Hoa, Góp phần tìm hiểu vua Hiệp Hoà, luận văn tốt nghiệp, khoá 1991 –1995, Khoa Sử ĐHSP. TP.HCM., tháng 4.1995.

46.Trần Trọng Kim, Việt Nam sử lược, bản in lần thứ 7, Nxb. Tân Việt, 1964.

47.Trần Văn Giàu, Chống xâm lăng, trọn bộ 3 tập, Nxb. TP.HCM. tái bản, 2001.

48.Trần Văn Giàu, Hệ ý thức phong kiến và sự thất bại của nó trước nhiệm vụ lịch sử, Nxb. TP.HCM., 1993.

49.Trần Văn Giàu, Hệ ý thức tư sản và sự thất bại của nó trước nhiệm vụ lịch sử, Nxb. KHXH., 1975.

50.Trần Xuân An, Phụ chính đại thần Nguyễn Văn Tường (1824 – 1886), truyện kí – khảo cứu lịch sử, hai tập I & II, 2002, hai tập III & IV, 2003, chưa xuất bản.

51.Trần Xuân An, Tiểu sử biên niên Kì Vĩ phụ chính đại thần Nguyễn Văn Tường (1824 – 1886), “kẻ thù lớn nhất của chủ nghĩa thực dân Pháp”, chưa xuất bản.

52.Tsuboi (Yoshiharu), Nước Đại Nam đối diện với Pháp và Trung Hoa, Nguyễn Đình Đầu và nhóm cộng tác viên dịch, Ban KHXH. Thành ủy TP. HCM. xb., 1990.

53.Viện Văn học (nhiều tác giả, GS. Nguyễn Huệ Chi chủ biên), Thi hào Nguyễn Khuyến, đời và thơ, Nxb. KHXH., 1992.

54.Vụ Bảo tồn bảo tàng, Niên biểu Việt Nam, in lần thứ 4, Nxb. Văn hóa dân tộc, 1999.

(*) Về những sách báo tham khảo trên đây, người biên soạn xin cảm ơn các tác giả, soạn giả, và chỉ tiếp nhận những tư liệu, ý kiến xét thấy là đúng (có chú thích xuất xứ rất cụ thể), trên cơ sở lấy Đại Nam thực lục chính biên các kỉ IV, V,VI làm chuẩn cứ. Ngoài ra, trên đây, cũng đã liệt kê một số cuốn sách do chúng tôi viết, biên soạn. Qua đó, chúng tôi đã trực tiếp hoặc gián tiếp tranh luận, có chỗ đành phải mạn phép đả phá trên tinh thần khoa học, dân chủ trong học thuật, và theo phương châm “học thuật là cuộc đua tiếp sức”. TXA.



NGUYỄN VĂN TƯỜNG,
“NHỮNG NGƯỜI TRUNG NGHĨA
TỪ XƯA, TƯỞNG KHÔNG HƠN ĐƯỢC”

MỤC LỤC


A. Phần mở đầu:
+++ Ảnh: Chân dung Nguyễn Văn Tường (02 tấm). 5.
+++ Lời thưa đầu sách. 7.

B. Phần nội dung chính:
I. Bài khảo luận:

+++ Bài thơ Giải Triều, nguyên tác chữ Hán.
+++ Sơ đồ: Cuộc Kinh Đô Quật Khởi, 23.5 Ất dậu (05.7.1885).

Bài 1. Nguyễn Văn Tường với nhiệm vụ lịch sử sau cuộc Kinh Đô Quật Khởi 05.7.1885 (22 – 23.5 Ất dậu). 16.

1) Một bối cảnh lịch sử hoàn toàn bế tắc.

2) Sự phân công nhiệm vụ lịch sử: "Tổ quốc, vua, dân, đâu trọng khinh?".
Nỗi khổ tâm, lòng trung nghĩa của Nguyễn Văn Tường qua mật dụ Hàm Nghi (và Tôn Thất Thuyết) gửi về từ Tân Sở (Cam Lộ, Quảng Trị).

3) "Lòng trung sâu kín, sau ai tỏ?".
3.a. Đấu tranh mặt nổi và mặt chìm.
3.a.1. Đấu tranh với thực dân Pháp, bọn tay sai, cơ hội.
3.a.2. Đối phó với phe chủ "hoà" (Từ Dũ, Miên Định...) với phương thức "không biết gì hết".
3.a.3. Với phương thức "không biết gì hết", nhằm phối hợp bí mật nhưng chặt chẽ với phong trào Cần vương.
3.b. Nhiệm vụ lịch sử với lập trường kiên định, thái độ chính trị "nhất dạng".
Sự ngộ nhận, xuyên tạc.
Thực dân Pháp thao túng trong sự nhân danh triều đình.
Nỗi khổ tâm của Nguyễn Văn Tường.
3.c. Thái độ chính trị "nhất dạng" với lập trường kiên định chống Pháp, không chấp nhận "bảo hộ" của Nguyễn Văn Tường qua các bản kết án của thực dân Pháp và ngụy triều Đồng Khánh.
3.d. Quá trình đấu tranh chống pháp nhất quán, liên tục của Nguyễn Văn Tường ngay trong những ngày tháng bị lưu đày ở Côn Đảo, Tahiti, qua bài viết của Henry Le Marchant de Trigon.
4) Sự dựng đứng chuyện bịa, xuyên tạc sự thực lịch sử, nhằm mục đích triệt hạ uy tín của Nguyễn Văn Tường và nhóm chủ chiến, đó là thủ đoạn tuyên truyền của thực dân Pháp, bọn tả đạo trong Thiên Chúa giáo.
Phê phán các tư liệu: lập trường, quan điểm đánh giá; lượng thông tin.
Kết luận về Nguyễn Văn Tường.

Bài 2. Bi kịch ở điểm đỉnh mâu thuẫn: 1883 – 1884, và sự chiến thắng của nhóm chủ chiến yêu nước. 65.

Bài 3. Về một vài trang đảo ngược sự thật lịch sử vì mục đích tuyên truyền trong Việt Nam vong quốc sử. 78.

Bài 4. Cách viết sử theo tiêu chí ngược ở Đại Nam thực lục chính biên kỉ đệ lục và cách viết sử xuyên tạc bằng sự đảo ngược sự thật lịch sử ở một vài trang trong Việt Nam vong quốc sử. 95.

II. Đối thoại:

Bài 1. Trích đoạn “Chống xâm lăng” (và như một cách đối thoại với GS. Trần Văn Giàu). 104.

Bài 2. GS. Bửu Kế, “Tòa Khâm sứ Pháp” (và vài nét bình chú tuỳ bút – khảo luận về lịch sử). 132.

III. Phụ lục:

@ Phụ lục I : Trích từ ĐNTL.CB.:

1. Nguyễn Văn Tường cùng đồng sự đi kinh lí huyện Thành Hóa, Quảng Trị, tháng 01 Giáp tí (tháng 02. 1864). 175.

2. Nguyễn Văn Tường là vị quan giỏi được chọn làm phủ doãn để hiểu bảo giáo dân Thiên Chúa giáo tại kinh đô Huế, tháng 6 Giáp tí (tháng 7.1864). 175.

3. Nguyễn Văn Tường xin trở về Thành Hóa (Cam Lộ) để làm tuyên phủ sứ, đặt cơ sở để xây dựng Tân Sở, hậu lộ của kinh đô, tháng 02 Ất sửu (tháng 3.1865). 176.

4. Nguyễn Văn Tường làm khâm phái, bang biện huyện Thành Hóa, bắt đầu xây dựng Tân Sở và hệ thống thượng đạo, tháng 10 Bính dần (tháng 11.1866). 178.

5. Nguyễn Văn Tường phòng thủ trước việc thực dân Pháp xâm chiếm đất hoang, tháng 11 Bính dần (tháng 12.1866). 180.

6. Nguyễn Văn Tường tâu bày về công việc sơn phòng đạo Cam Lộ, trong đó có việc mở thượng đạo Bình Định – Nghệ An, tháng 12 Bính dần ( tháng 01.1867). 180.

7. Bản sớ Nguyễn Văn Tường thay mặt sứ bộ vạch trần âm mưu xâm chiếm lục tỉnh Nam kì của thực dân Pháp, tháng 3 Mậu thìn (tháng 4.1868). 182.

8. Tư tưởng chính trị nhân trị, đức trị đi đôi với việc tăng cường quân đội của Nguyễn Văn Tường, trong việc xếp đặt ở Bắc kì, tháng 6 Canh ngọ (tháng 7.1870). 185.

9. Việt gian theo Thiên Chúa giáo mưu bắt Nguyễn Văn Tường để phá hỏng việc Pháp trao trả 4 tỉnh Bắc kì, tháng 11 Qúy dậu (tháng 12.1873). 187.

10. Nguyễn Văn Tường yêu cầu Pháp giải tán quân ngụy ở Bắc kì, tháng 11 Quý dậu (tháng 12.1873). 188.

11. Nguyễn Văn Tường với ý thức và hành động canh tân Đất nước: tìm mua và dâng tiến sách tiếng Tây, tháng 4 Giáp tuất (tháng 5.1874). 188.

12. Nguyễn Văn Tường với ý thức và hành động canh tân Đất nước: tiến dâng súng Tây, tìm dùng người biết ngoại ngữ, người có trình độ kĩ thuật công nghệ, tháng 8 Giáp tuất (tháng 9.1874). 189.

13. Thượng thư Bộ Hộ Nguyễn Văn Tường cải cách thuế ruộng đất trên cơ sở vì quyền lợi của dân nghèo canh tác ruộng công và vì sự thống nhất kinh tế – tài chính Nam – Bắc, tháng 7 Ất hợi (tháng 8.1875). 190.

14. Nguyễn Văn Tường tâu xin tiếp tục tăng cường việc xây dựng hệ thống sơn phòng ở Quảng Trị như khắp cả vùng rừng núi Trung – Bắc kì, đặc biệt là như Sơn phòng trọng yếu Sơn Tây, tháng 10 Ất hợi (tháng 11.1875). 190.

15. Thượng thư Bộ Hộ Nguyễn Văn Tường tâu bày về việc cải cách thuế ruộng đất Nam – Bắc, phê phán bọn cường hào ác bá, tháng 3 Canh thìn (tháng 4.1880). 191.

16. Thủ đoạn bao vây, cô lập nước ta về ngoại giao của Chính phủ thực dân Pháp, tháng 8 Tân tị (tháng 9 – tháng 10.1881). 192.

17. Cơ mật viện – Thương bạc nhận định và vạch kế hoạch mở rộng ngoại giao để phá vỡ âm mưu bao vây, cô lập nước ta về ngoại giao của thực dân Pháp, tháng 8 Tân tị (tháng 9 – tháng 10.1881). 193.

18. Nguyễn Văn Tường tiếp xúc với sứ giả Đường Đình Canh để tranh thủ sự giúp đỡ của triều Thanh Trung Hoa, nhằm vận động sự ủng hộ của sứ thần các nước tại Yên Kinh, tháng 12 Tân tị (tháng 01 – tháng 02. 1882). 195.

19. Đoạn di chiếu của vua Tự Đức về Dục Đức (hoàng trưởng tử Ưng Chân), tháng 6 Quý mùi (tháng 7.1883). 197.

20. Đoạn di chiếu của vua Tự Đức về 3 phụ chính, tháng 6 Quý mùi (tháng 7.1883). 198.

21. Đoạn di chúc của vua Tự Đức về Ưng Kĩ (Đồng Khánh), Ưng Đăng (Kiến Phúc), tháng 6 Quý mùi (tháng 7.1883). 198.

22. Vụ truất phế Dục Đức, tháng 6 Quý mùi (tháng 7.1883). 199.

23. Tập tâu của nhóm chủ chiến (Nguyễn Văn Tường, Tôn Thất Thuyết), tháng 6 Quý mùi (tháng 7.1883). 204.

24. 3 đại thần đã xin vua Tự Đức bỏ bớt đoạn răn bảo Dục Đức, Tự Dức không đồng ý; nay xét xử tội “truyền tả chế thư sai lầm” của Trần Tiễn Thành, tháng 8 Quý mùi (tháng 9.1883). 205.

25. Vụ phế truất, thi hành án vua Hiệp Hoà cùng Trần Tiễn Thành và những kẻ đồng mưu câu kết với thực dân Pháp, tháng 10 Quý mùi (tháng 11.1883). 207.

26. Dụ của vua Kiến Phúc (và hai vị phụ chính Nguyễn Văn Tường, Tôn Thất Thuyết) về chủ trương và ý hướng kêu gọi đoàn kết lương, giáo, tháng 12 Quý mùi (tháng 01.1884). 212.

27. Tôn Thất Thuyết lập Phấn nghĩa quân, được Nguyễn Văn Tường cho phép, tháng 12 Quý mùi (tháng 01. 1883). 215.

28. Tiếp tục thiết lập Sơn phòng Tân Sở, tháng 12 Quý mùi (tháng 01.1884). 217.

29. Vua Kiến Phúc chết, 10 tháng 6 Giáp thân (31.7. 1884). 218.

30. Bản án về Ông Ích Khiêm, cái chết của ông, và sự gia ơn, khai phục cho ông của Triều đình, tháng 7 Giáp thân (21.8 – 19.9.1884). 219.

31. Tiếp tục tăng cường Sơn phòng Quảng Nam, tháng 7 Giáp thân (cuối tháng 8 – tháng 9.1884). 220.

32. Thi hành án Dục Đức, tháng 9 Giáp thân (tháng 10.1884). 221.

33. Vụ Gia Hưng vương Hồng Hưu câu kết với giặc Pháp, lại can tội loạn luân có quả tang, tháng 9 Giáp thân (19.10 – 18.11.1884). 222.

34. Tiếp tục củng cố Sơn phòng Hà Tĩnh, dời đặt Nha Doanh điền Quảng Bình, tháng 10 Giáp thân (tháng 11 – tháng 12.1884). 225.

35. Trước đêm Kinh Đô Quật Khởi, 22 – 23.5 Ất dậu (04 – 05.7.1885). 227.

36. Cuộc Kinh Đô Quật Khởi, khuya 22 rạng ngày 23.5 Ất dậu (04 – 05.7.1885). 228.

37. Tình hình ở Huế sau khi vua Hàm Nghi và 3 cung cùng Tôn Thất Thuyết đã đi khỏi, sáng 23.5 Ất dậu (sáng 05.7.1885). 230.

38. Theo sắc chỉ của Từ Dũ, Nguyễn Văn Tường giảng “hoà” với De Courcy qua trung gian môi giới của giám mục Caspar, 23.5 Ất dậu (05.7.1885). 231.

39. Nguyễn Văn Tường ủy nhiệm Phạm Hữu Dụng ra Quảng Trị bàn việc với Tôn Thấât Thuyết, tâu vua biết, định rước xe vua về, ngày 24 – 25.5 Ất dậu (05 – 06.7.1885). 232.

40. Tình hình Thừa Thiên và cả nước, 27 – 29.5 Ất dậu (09 – 11.5.1885). 233.

41. Tập tâu Nguyễn Văn Tường đệ gửi 3 cung về việc hồi loan (về Huế), 02.6 Ất dậu (13.7.1885). 234.

42. Mật dụ của Hàm Nghi (và Tôn Thất Thuyết) từ Tân Sở gửi về Nguyễn Văn Tường, cùng một ngày phát Dụ Cần vương, 02.6. Ất dậu (13.6.1885). 235.

43. Mật dụ của Hàm Nghi (và Tôn Thất Thuyết) từ Tân Sở gửi về hoàng tộc, ngày 07.5 Ất dậu (18.7.1885). 237.

44. Thọ Xuân vương Miên Định làm giám quốc, ngày 08.6 Ất dậu (19.7.1885). 239.

45. Dụ của Từ Dũ, tháng 6 Ất dậu (tháng 7.1885). 239.

46. Bản tấu của Nguyễn Văn Tường phúc tâu lên Từ Dũ thái hoàng thái hậu, khoảng từ 16 – 19.6 Ất dậu (tháng 8.1885). 240.

47. Nguyễn Văn Tường đấu tranh với De Courcy, De Champeaux, Nguyễn Hữu Độ về vấn đề bố trí quan chức ở Bắc kì, cuối tháng 6 Ất dậu (7.1885). 242.

48. Vụ Lê Trung Đình ở Quảng Ngãi, đầu tháng 7 Ất dậu (tháng 8.1885). 244.

49. Vụ Bình Định, tháng 7 Ất dâïu (tháng 8.1885). 246.

50. Dụ của Từ Dũ và 2 cung, đánh giá cao cuộc Kinh Đô Quật Khởi, tháng 7 Ất dậu (cuối tháng 8 bước sang đầu tháng 9.1885). 247.

51. Dụ của 3 cung về vấn đề lương, giáo phục thù, ít hôm trước ngày Nguyễn Văn Tường bị bắt, cuối tháng 7 Ất dậu (đầu tháng 9.1885). 248.

52. Bản án của thực dân Pháp về Nguyễn Văn Tường, do De Courcy, De Champeaux cáo thị, ngày 27.7 Ất dậu (05.9.1885). 250.

@@@@@@

53.Trích phàm lệ của kỉ đệ lục: VIẾT SỬ THEO TIÊU CHÍ NGƯỢC. 251.

54. Quốc thư gửi Chính phủ Pháp của ngụy triều Đồng Khánh, tháng 8 Ất dậu (tháng 9.1885). 252.

55. Bản án chung thẩm của ngụy triều Đồng Khánh (có chữ kí của De Courcy) về Nguyễn Văn Tường và 3 thành viên khác của nhóm chủ chiến Triều đình Huế, tháng 8 Ất dậu (tháng 9.1885). 253.

56. Dụ của Đồng Khánh (do khâm sứ thực dân Hector, Nguyễn Hữu Độ hợp soạn, Đồng Khánh chỉ sửa chữa lại), niêm yết khắp các tỉnh từ Quảng Nam trở vào, tháng 02 Bính tuất (tháng 3.1886). 253.

57. Cáo thị của ngụy triều Đồng Khánh (do hai khâm sai Phan Liêm, Phạm Phú Lâm hợp soạn, Đồng Khánh tự sửa định), niêm yết khắp các tỉnh từ Quảng Nam trở vào, tháng 02 Bính tuất (tháng 3.1886). 254.

58. Theo lệnh Pháp, ngụy triều Đồng Khánh và Nguyễn Hữu Độ, cùng với Phan Liêm, Phạm Phú Lâm tuyên truyền bôi nhọ nhằm triệt hạ uy tín Nguyễn Văn Tường, Tôn Thất Thuyết và nhóm chủ chiến, để dập tắt phong trào Cần vương, nên đã bị sĩ phu, nhân dân phản ứng, tháng 11 Bính tuất (tháng 12.1886). 255.

59. Là chánh khâm sai trong chiến dịch bôi nhọ, triệt hạ uy tín Nguyễn Văn Tường, Tôn Thất Thuyết và nhóm chủ chiến, nhằm dập tắt phong trào Cần vương, cuối cùng Phan Liêm cũng như Phạm Phú Lâm, đều thú nhận: sĩ phu, nhân dân sáng suốt, giàu lòng yêu nước, không chịu khuất phục giặc Pháp và ngụy triều Đồng Khánh, tháng 8 Đinh hợi (tháng 9 – tháng 10. 1886). 258.

Phần phụ lục này, chúng tôi đã trích khá nhiều đoạn, dựa vào câu đề của từng mục để đặt tạm đầu đề cho các trích đoạn ấy. Ở mục lục, vẫn xin nêu bật 5 tiểu đề để nhấn mạnh 5 trích đoạn quan trọng, cần lưu ý:

+++ Mật dụ của Hàm Nghi (và Tôn Thất Thuyết) từ Tân Sở gửi về Nguyễn Văn Tường, 02.6 Ất dậu (13.7.1885). 235.
+++ Mật dụ của Hàm Nghi (và Tôn Thất Thuyết) từ Tân Sở gửi về hoàng tộc, 07.6 Ất dậu (18.7.1885). 237.
+++ Bản án cáo thị của De Courcy, De Champeaux về Nguyễn Văn Tường, 27.7 Ất dậu (05.9.1885). 250.
+++ Bản án chung thẩm của ngụy triều Đồng Khánh và Pháp về Nguyễn Văn Tường cùng 3 thành viên chủ chốt khác của nhóm chủ chiến Triều đình Huế, tháng 8 Ất dậu (tháng 9. 1885). 253.
+++ Dụ và cáo thị của Hector, Đồng Khánh, Nguyễn Hữu Độ, Phan Liêm, Phạm Phú Lâm cho các tỉnh Tả kì ở phía nam, tháng 02 Bính tuất (tháng 3. 1886). 253 & 254.

@ Phụ lục II: Trích các tư liệu khác: QTHKL. & BAVH.:

60. Về năm mất của Nguyễn Văn Tường. 260.

61. Giấy khai tử, thủ tục hộ tịch về sự qua đời của Nguyễn Văn Tường. 261.

62. Trích tin tức về sự qua đời của Nguyễn Văn Tường trên Công báo Tahiti, 05.8.1886, trang 202. 262.

63. Quyết định di chuyển thi hài Nguyễn Văn Tường về Đại Nam. 262.

++ Ảnh: Phụ chính đại thần Nguyễn Văn Tường trên giường bệnh ở Tahiti, 1886.
++ Ảnh: Hầm mộ quàn thi hài PCĐT. Nguyễn Văn Tường tại Tahiti (hiện nay vẫn còn).
++ Ảnh: Ngôi mộ PCĐT. Nguyễn Văn Tường tại quê nhà, 2002.
++ Bản đồ: Quê hương của Nguyễn Văn Tường: An Cư, Triệu Phước, Triệu Phong, Quảng Trị.

64. Những trang ngoài sách.

C. Phần cuối sách:

1. Danh mục sách báo tham khảo. 264.
2. Mục lục. 270.
3. Danh mục sách của tác giả. 280.


GHI CHÚ VỀ ẢNH &
CÁC TƯ LIỆU TRỰC QUAN KHÁC
(từ các nguồn tư liệu hoặc của các tác giả):

-1. & 2. Ảnh: Chân dung PCĐT. Nguyễn Văn Tường. Trích từ Kỉ yếu Hội nghị khoa học về “Nhóm chủ chiến triều đình Huế và Nguyễn Văn Tường (1824 – 1886)”, ĐHSP. Tp. HCM., 20.6.1996.

-3. Bài thơ Giải triều, nguyên tác chữ Hán. Xếp chữ vi tính Hán ngữ: Nguyễn Tôn Nhan (Tp. HCM.).

-4. Sơ đồ Cuộc Kinh đô quật khởi 05.7.1885: Lương An (Tp. HCM.).

-5. Sơ đồ kinh thành Huế. Trích theo Hồ Vĩnh (Huế), trong tập sách Hội thảo khoa học về nhân vật lịch sử Nguyễn Văn Tường (1824 – 1886) – Các báo cáo khoa học, TT. KHXH. & NV. thuộc Viện ĐH. Huế, Hội KHLS. Thừa Thiên – Huế, 02.7.2002.

-6. Bản đồ hành trình chuyến tàu lưu đày từ Việt Nam đến Tahiti. Trích từ phần báo cáo tư liệu trực quan trong Hội thảo khoa học về nhân vật lịch sử Nguyễn Văn Tường (1824 – 1886), Huế, 02.7.2002. Trần Nguyễn Từ Vân (châu Mỹ) sưu tầm.

-7. Bản đồ đảo Tahiti (vị trí làng Papeete trên đảo). Trích từ phần báo cáo tư liệu trực quan trong Hội thảo khoa học về nhân vật lịch sử Nguyễn Văn Tường (1824 – 1886), Huế, 02.7.2002. Trần Nguyễn Từ Vân (châu Mỹ) sưu tầm.

-8. Ảnh: PCĐT. Nguyễn Văn Tường trong những ngày cuối đời trên giường bệnh tại làng Papeete, đảo Tahiti. Aldophe Delvaux sưu tầm (Tạp chí Những người bạn cố đô Huế [BAVH.], 1923).

-9 & 10. Ảnh: Hầm mộ quàn thi hài PCĐT. Nguyễn Văn Tường trong thời gian chờ chuyến tàu về Việt Nam (1886). Trích từ phần báo cáo tư liệu trực quan trong Hội thảo khoa học về nhân vật lịch sử Nguyễn Văn Tường (1824 – 1886), Huế, 02.7.2002. Trần Nguyễn Từ Vân (châu Mỹ).

-11. Ảnh: Lăng mộ PCĐT. Nguyễn Văn Tường tại An Cư, Triệu Phước, Triệu Phong, Quảng Trị (ảnh chụp vào tháng 07.2002). Trần Xuân An (Tp. HCM.).

-12. Ảnh: Vị trí quê hương PCĐT. Nguyễn Văn Tường trên bản đồ Quảng Trị. Trích bản đồ hành chính tỉnh Quảng Trị từ cuốn Quảng Trị, tiềm năng và triển vọng đầu tư, Sở Kế hoạch & Đầu tư tỉnh Quảng Trị xb., 1996.


SƠ ĐỒ KINH THÀNH HUẾ


1. Toà Khâm sứ Pháp (nay là vị trí ĐHSP. Huế).
2. Toà Thương bạc (nay là vị trí Nhà Văn hoá thành phố Huế).
3. Đình Thương bạc (hiện vẫn tồn tại).
4. Lục bộ: Lại, Hộ, Lễ, Binh, Hình, Công.
5. Phủ Thừa Thiên (1864 – 1866, Nguyễn Văn Tường làm Phủ doãn).
6. Chính Đông môn (tục gọi là cửa Đông Ba, hiện vẫn tồn tại).



ĐÃ GỬI BẢN HOÀN CHỈNH NÀY (2003):
Đợt 1: …v.v….
Đợt 2:
1.Chi nhánh Nxb. Khoa học xã hội (cô Mai, cô Nga): hai cuốn (01 chi nhánh giữ, 01 cơ quan chính tại Hà Nội nhận để biên tập)

2.PGs. Ts. Trần Đức Cường (Viện trưởng Viện Sử học tại Hà Nội, nhân chuyến ông vào Tp.HCM. cùng Ban Biên tập Tạp chí Nghiên cứu lịch sử để họp mặt với cộng tác viên).

3.Chi nhánh Nxb. Thanh Niên (Nguyễn Công Bình)

NGOÀI RA, ĐÃ GỬI BẢN CHƯA HOÀN CHỈNH (2002):

1. Nnc. Trần Viết Ngạc
2. Tạp chí Xưa & Nay (anh Nguyễn Hạnh)
3. Nnc. Dương Trung Quốc
4. Ts. Đào Hùng
5. Nnc. Lê Văn Thuyên (tạp chí Huế Xưa & Nay)
6. PGs. Ts. Đỗ Bang
7. Nxb. Thuận Hoá (anh Bình, và anh Điểm – người Quảng Trị)
8. Chú Nguyễn Văn Toàn (bà con ở Tp. HCM.)
9. Chú Nguyễn Văn An (bà con ở Tp. HCM.)
10. Ông Nguyễn Văn Đàn (bà con ở Huế) [thấy đã chuyển cho chú Nguyễn Văn Phước ở Tp. HCM.].
11. Anh Hoàng Phủ Ngọc Tường & chị Mỹ Dạ (bốn bài nghiên cứu chính trong cuốn sách)
12. Đã gửi BỐN BÀI NGHIÊN CỨU theo dạng gửi bài cho báo, tạp chí:
13. Nnc. Nguyễn Hữu Châu Phan (Tập san Nghiên cứu Huế)
14. Tạp chí Nghiên cứu lịch sử
15. Kiến thức ngày nay …



Xin lưu ý:

Bản này y hệt bản đã kính gửi đến PGS. TS. Trần Đức Cường, Viện trưởng Viện Sử học Việt Nam, và Cn. Nxb. KHXH. tại Tp. HCM., ngoại trừ 01 phần & 02 chi tiết bổ sung sau đây:

1. Phần bổ sung, tr. 20 – 26 (bản thảo này):
THÔNG TIN: CÁC HỘI NGHỊ, HỘI THẢO KHOA HỌC VỀ NGUYỄN VĂN TƯỜNG (1824 – 1886).

2. Chi tiết bổ sung: Chú thích 69 (footnote), tr. 43 (bản thảo này):
Bài “Có hay không Dụ Cần vương ngày 11. 08. Ất dậu (19. 09. 1885)?” của Trần Viết Ngạc, Bns. Xưa và Nay, số 128, tháng 11. 2002, tr. 9 – 11 (trừ 2 luận cứ 7 & 8).

3. Chi tiết bổ sung: SÁCH BÁO THAM KHẢO, tr. 180 (bản thảo này):
33. Phan Khoang, Việt Nam Pháp thuộc sử (1858 – 1945), Phủ QVK. ĐTVH. (Sài Gòn), bản in lần thứ hai, 1971.

23.05.2004
TXA.
4. Bổ sung thêm ở cước chú 4, bài Về một vài trang đảo ngược sự thật lịch sử…
16.04.2005



NGUYỄN VĂN TƯỜNG,
“NHỮNG NGƯỜI TRUNG NGHĨA TỪ XƯA,
TƯỞNG KHÔNG HƠN ĐƯỢC”
khảo luận về một vài khía cạnh sử học
TRẦN XUÂN AN

NXB.
2003



TÁC GIẢ GIỮ BẢN QUYỀN TỪNG CHỮ, TỪNG Ý TƯỞNG CỦA MÌNH.
TRÂN TRỌNG VÀ THÀNH THẬT BIẾT ƠN.



CUỐN SÁCH ĐẦU TIÊN TÁC GIẢ TỰ XẾP CHỮ,
DÀN TRANG, TRÌNH BÀY TRÊN MÁY VI TÍNH TẠI NHÀ.
Từ khi khởi công thực hiện đến lúc hoàn tất:
khoảng 30 ngày trước ngày
17 tháng 4 Nhâm ngọ,
năm thứ 02 công nguyên Hòa Bình
(28.5.2002)
với sự góp công gõ phím vi tính của hai con:
Trần Xuân Bài Thơ & Trần Xuân Nhân Văn.
Tự nhuận sắc:
12.7 – 04.8 Quý mùi HB.3 (09 – 31.8.2003)

Nhân đây, xin chân thành cảm ơn kĩ sư Bùi Quang Ngọc (Cti REE),
người đã mua giúp máy vi tính &
lưu trữ, ghi vào đĩa CD giúp tất cả những tác phẩm sáng tác,
biên khảo của tôi.
TXA.

HẾT


Đã đăng trọn vẹn cuốn sách này trên Tạp chí điện tử Giao Điểm, 05-2005:
http://www.giaodiem.com ( search )
http://www.giaodiem.com/mluc/mluc_III05/505_index.htm ( link trực tiếp )